Tiểu sử cuộc đời và đạo nghiệp vĩ đại của cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu
Quý vị và các bạn thân mến! Cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu là một nhà sư, một dịch giả vô cùng vĩ đại. Ngài đã tu học và dịch thuật kinh điển không ngừng nghỉ, để cống hiến cho sự phát triển của nền Phật giáo Việt Nam, và Phật giáo trên thế giới. Cả cuộc đời ngài đã dành hết tâm trí, kiến thức Phật pháp để dịch thuật và viết nên những bộ kinh điển rất có giá trị và vô cùng hữu ích cho hàng xuất gia, tại gia tu học. Mặc dù ngài đã viên tịch về Niết bàn cõi Phật, thế nhưng những di sản mà ngài để lại cho hậu thế, sẽ được chư vị Tăng ni, Phật tử trong nước và trên thế giới đời đời tiếp nối những hạnh nguyện công đức to lớn của ngài. Qua bài viết này, Tôn Giáo Tín Ngưỡng sẽ giúp quý vị và các bạn cùng tìm hiểu về tiểu sử thân thế, cuộc đời đạo nghiệp và những thành quả đạt được của cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu, một vị chân tu vĩ đại của Việt Nam, thông qua nội dung chi tiết trong bài viết sau đây.
Mục Lục
Sơ lược tiểu sử cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu
Cố Trưởng lão Hòa Thượng Thích Minh Châu có thế danh là Đinh Văn Nam, pháp danh là Tâm Trí, pháp tự là Minh Châu, pháp hiệu là Viên Dung. Ngài Thích Minh Châu sinh vào ngày 20/10/1918, tại làng Kim Thành, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ngài sinh ra và lớn lên trong một gia đình có tới 11 người con, trong đó ngài Thích Minh Châu là người con thứ tư trong gia đình.
Dòng tộc của cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu vốn có truyền thống hiếu học, Tổ tiên trước đây của ngài đều đỗ khoa bảng, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình. Phụ thân của ngài Thích Minh Châu là cụ ông Đinh Văn Chấp, vốn gốc người làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, cụ ông Đinh Văn Chấp từng đỗ Hoàng giáp khoa, vào năm Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7, khi đó cụ ông Đinh Văn Chấp mới chỉ 21 tuổi. Mẫu thân là cụ bà Lê Thị Đạt. Ông nội của ngài Thích Minh Châu là Tiến sĩ Đinh Văn Chất, cụ là một văn thân yêu nước, là thủ lĩnh trong phong trào Cần Vương tại Nghệ An. Kỵ nội của ngài Thích Minh Châu là Tiến sĩ Đinh Văn Phác, cụ thi đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa thi đầu của Triều Nguyễn, năm 1822.
Do ngài Thích Minh Châu chịu ảnh hưởng từ gia đình có truyền thống hiếu học, đỗ đạt làm quan cao, chức trọng, vậy nên ngay từ thuở nhỏ ngài Thích Minh Châu đã rất cố gắng chăm học, nên trí tuệ của ngài phát triển sớm hơn so với các bạn đồng trang lứa.
Năm 1932, khi này Hội An Nam Phật học ra đời, phong trào đã trấn hưng Phật giáo nở rộ khắp miền Trung. Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám là một Phật tử, một nhà trí thức yêu nước, được bầu làm Hội trưởng kiêm làm Chủ bút tạp chí Viên Âm. Ngoài ra, ngài Thích Minh Châu, cùng với em trai là Giáo sư Minh Chi Đinh Văn Vinh, đã đến tham gia với phong trào học Phật từ năm 1936, do Bác sĩ Lê Đình Thám tổ chức Hội An Nam Phật học, ngài Thích Minh Châu còn được đảm nhiệm chức Chánh Thư ký của Hội.
Lúc đó, với tư cách là một Phật tử thanh viên của Hội, ngài Thích Minh Châu đã hoạt động tích cực về nhiều mặt, giúp 17 Tỉnh hội Phật giáo miền Trung phát triển Phật sự ngày càng lớn mạnh. Bên cạnh đó, ngài còn là hạt nhân nòng cốt, hỗ trợ phát động phong trào thanh niên tham gia nghiên cứu đạo Phật. Ngài Thích Minh Châu còn là một trong những người sáng lập Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục và Gia đình Phật hóa phổ, về sau này đã được đổi tên thành Tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam.
Vào năm 1939, ngài Thích Minh Châu đã thi đỗ bằng Cao đẳng Tiểu học Đông Dương. Đến năm 1940, ngài đã thi đỗ Tú tài Toàn phần tại trường Khải Định, (nay là trường Quốc Học – Huế). Cũng trong thời gian này, ngài Thích Minh Châu còn được bổ nhiệm làm Thư ký tòa Khâm sứ, tỉnh Thừa Thiên, khi đó ngài mới chỉ 22 tuổi. Sau một thời gian làm việc tại tòa Khâm sứ, ngài Thích Minh Châu đã chứng kiến nhiều bất công, khi người dân bị xét xử oan sai nên ngài đã xin thôi việc.
Tiểu sử hoạt động chi tiết của cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu
Năm 1946, ngài Thích Minh Châu đến chùa Tường Vân, hiện nay tọa lạc tại đường Trần Thái Tông, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngài xuất gia tu học với Hòa thượng Thích Tịnh Khiết – Ðệ nhất Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, và được thầy Bổn sư ban cho ngài pháp danh là Tâm Trí.
Trải qua những tháng ngày theo thầy tu học và chấp tác những công việc nặng nhọc tại Tổ đình, cũng như công việc trong Hội, thế nhưng ngài Thích Minh Châu không bao giờ trễ nải với công việc được giao phó. Ngài vừa là giảng sư, vừa là chú điệu đang thực hành nếp sống thiền môn.
Năm 1949, ngài Thích Minh Châu được thầy Bổn sư cho phép thọ Cụ túc giới, tại giới đàn Hộ Quốc, tại chùa Báo Quốc, do chính thầy Bổn sư Thích Tịnh Khiết làm Đàn đầu Hòa thượng. Trong Đại giới Đàn này, ngài Thích Minh Châu được Hội đồng Thập sư đặc cách cho ngài thọ Tam Đàn Cụ túc, và ngài được thầy Bổn sư ban cho pháp tự là Minh Châu, pháp hiệu là Viên Dung.
Năm 1951, khi này Hội thành lập Trường Trung học Bồ Đề đầu tiên tại Huế, ngài Thích Minh Châu đã được giữ chức Hiệu trưởng. Cũng trong năm 1951, tại Hội nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam ba miền, được tổ chức tại chùa Từ Đàm, ngài Thích Minh Châu được cử làm đại biểu chính thức tham dự Hội nghị.
Năm 1952, ngài Thích Minh Châu được sự chấp thuận của Giáo hội và thầy Bổn sư, ngài bắt đầu đi du học tại Sri Lanka, học Pali và Anh văn tại Colombo.
Năm 1955, ngài Thích Minh Châu được Trường Đại học Tích Lan ban tặng bằng Pháp sư. Sau đó, ngài Thích Minh Châu tiếp tục sang Ấn Độ, du học tại Trường Ðại học Phật giáo Nava Nalanda Mahavihara, thuộc Đại học Bihar Ấn Ðộ.
Năm 1958, ngài Thích Minh Châu đỗ liên tiếp các văn bằng cử nhân Pali và Anh văn, đặc biệt là ngài đỗ Thủ khoa M.A, (cao học), về Pali và Abhidhamma. Với đề tài, So sánh tập Pali Trung bộ kinh với tập Trung A hàm Hán tự.
Tháng 9/1961, ngài Thích Minh Châu là người Việt Nam đầu tiên đỗ Tiến sĩ Phật học, Văn học Pali tại Ấn Độ. Ngài đã được đích thân Tổng thống Ấn Độ năm đó, trao cho ngài văn bằng Danh dự và khen ngợi ngài không ngớt về luận văn này.
Năm 1962 và 1963, ngài Thích Minh Châu được Trường Đại học Bihar Ấn Độ, mời ngài ở lại Trường để giảng dạy. Tại đây ngài đã viết được nhiều tác phẩm bằng tiếng Anh rất có giá trị như; Huyền Trang nhà chiêm bái và học giả; Pháp Hiển – nhà chiêm bái khiêm tốn; So sánh tập Pali Milinda-Padha với tập Na-Tiên Tỷ-kheo Hán tự.
Năm 1964, ngài Thích Minh Châu trở về Việt Nam, ngài đem hết khả năng của mình học được để ứng dụng Phật sự, phát triển sự nghiệp giáo dục và phiên dịch Kinh tạng Pali. Sau đó ngài được mời giữ các chức vụ như, Phó Viện trưởng Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn, từ năm 1964 đến năm 1965. Ngài tiếp tục giữ chức, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn hóa và Giáo dục Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, từ năm 1966 đến năm 1975.
Sau khi đất nước Việt Nam thống nhất, trong năm 1975, ngài Thích Minh Châu đã bàn giao Viện Đại học Vạn Hạnh cho Bộ Giáo dục quản lý.
Năm 1976, ngài Thích Minh Châu về cơ sở 2, để thành lập Viện Phật học Vạn Hạnh, tọa lạc tại số 750, đường Nguyễn Kiệm, phường 4, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây ngài tiếp tục tập trung vào công việc phiên dịch toàn bộ Kinh tạng Pali sang Việt ngữ, ngài Thích Minh Châu còn dành thời gian để nhiếp hóa đồ chúng và dạy Phật pháp cho các chúng Tăng ni, Phật tử.
Năm 1980, ngài Thích Minh Châu tham gia vận động thống nhất Phật giáo nước nhà, để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Với sự đóng góp công sức to lớn của các vị chư tôn Hòa thượng như; Hòa thượng Thích Trí Thủ, Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Hòa thượng Thích Thiện Hòa, Hòa thượng Thích Từ Hạnh, Hòa thượng Thích Thiện Châu, Hòa thượng Thích Hiển Pháp. Cùng rất nhiều các vị chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng ni, Cư sĩ, Phật tử ở khắp 3 miền Bắc, Trung, Nam, cùng đồng tâm góp sức cho công cuộc vận động này.
Năm 1981, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã chính thức được thành lập, Ðại hội suy cử ngài Thích Minh Châu giữ chức Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam liên tiếp trong ba nhiệm kỳ I, II, III, từ năm 1981 đến năm 1997.
Cũng trong năm 1981, Giáo hội thành lập Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, cơ sở I tại Hà Nội, hiện nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội. Ngài Thích Minh Châu đã được Giáo hội cử ngài làm Hiệu trưởng.
Năm 1984, Giáo hội tiếp tục thành lập Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, cơ sở II tại thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Giáo hội đã suy cử ngài Thích Minh Châu làm Hiệu trưởng.
Năm 1989, ngài Thích Minh Châu đã thành lập Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, do chính ngài giữ chức Viện trưởng, đồng thời ngài giữ chức Chủ tịch Hội đồng phiên dịch Ðại Tạng kinh Việt Nam.
Năm 1991, ngài Thích Minh Châu thành lập Hội đồng Chỉ đạo Phiên dịch và Ấn hành Đại tạng Kinh Việt Nam, do ngài Thích Minh Châu làm chủ tịch. Đại tạng Kinh Việt Nam chính thức ra đời từ đó.
Tháng 5/1996, ngài Thích Minh Châu đã được Hội đồng Đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya, Đại học Hoàng gia Thái Lan, phong tặng danh hiệu Tiến sĩ Phật học danh dự, để tuyên dương công đức ngài Thích Minh Châu đã phiên dịch năm bộ kinh Nikaya sang tiếng Việt, gồm có Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya), Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya), Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya), Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya) và Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya).
Từ năm 1997 đến năm 2002, tại Ðại hội Ðại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IV và lần thứ V, Ðại hội đã suy tôn ngài Thích Minh Châu vào ngôi vị Thành viên Hội đồng Chứng minh và suy cử ngài giữ chức vụ Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, liên tiếp hai nhiệm kỳ IV và nhiệm kỳ V, từ năm 1997 đến năm 2007.
Tại Ðại hội Ðại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VI, năm 2007 đến năm 2012, toàn thể Ðại hội đã suy tôn ngài Thích Minh Châu lên giữ ngôi vị Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Đồng thời, ngài Thích Minh Châu còn là Ðại biểu Quốc hội khóa VII, khóa VIII, khóa IX và khóa X, từ năm 1981 đến năm 2002; cũng trong thời gian này, ngài Thích Minh Châu được bầu làm, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Xã hội Thành Phố Hồ Chí Minh.
Năm 2006, ngài Thích Minh Châu đã gác bút nghỉ ngơi và an dưỡng tuổi già. Cuộc đời của ngài như một tấm gương sáng về đức trí và giáo dục cho nhiều thế hệ Tăng ni, Phật tử. Với đức tính điềm đạm và nhẫn nại của một bậc chân tu khả kính, với sự nghiệp to lớn về giáo dục, phiên dịch Đại tạng kinh, ngài Thích Minh Châu luôn luôn để lại những tình cảm đặc biệt trong lòng Phật tử Việt Nam.
Kinh sách của ngài không phân biệt hệ phái Nam, Bắc, không phân biệt Đại thừa hay Tiểu thừa, ai muốn đọc để tìm hiểu về Giáo lý Phật pháp thì cứ tìm kinh sách của ngài để đọc. Trong Đại có Tiểu, trong Tiểu lại có Đại, đó là Giáo lý Giải thoát mà ngài Thích Minh Châu đã thuyết giảng trong suốt gần 70 năm qua.
Do công đức tu hành viên mãn, nên Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu đã viên tịch vào lúc 9 giờ 5 phút ngày 16/7 năm Nhâm Thìn, tức ngày 1/9/2012, ngài trụ tại thế 95 năm tuổi đời và 67 năm tuổi đạo. Lễ tang của ngài được tổ chức ngay trong khuôn viên của Thiền Viện Vạn Hạnh.
Ngày nay, mặc dù Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu đã nhập diệt vào cõi Niết-bàn, nhưng gương sáng trí tuệ và tinh thần giáo dục cho chư Tăng ni, Phật tử Việt Nam. Tinh thần phục vụ Đạo pháp cho dân tộc của ngài vẫn còn mãi mãi với non sông đất nước, còn mãi với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, còn mãi với chư vị Tăng ni, Phật tử trong nước và rất nhiều nước trên thế giới.
Cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu đã từng giữ những chức vụ nào?
Các chức vụ mà cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu đã từng trải qua có rất nhiều, có thể kể đến như:
– Nguyên Ðại biểu Quốc hội khóa VII, khóa VIII, khóa IX và khóa X.
– Nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
– Nguyên Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
– Nguyên Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
– Nguyên Viện trưởng Viện Ðại học Vạn Hạnh.
– Nguyên Viện trưởng sáng lập Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam – Chủ tịch Hội đồng phiên dịch Ðại Tạng kinh Việt Nam.
– Nguyên Hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, Cơ sở 1, chùa Quán Sứ – Hà Nội, Cơ sở 2 – thành phố Hồ Chí Minh.
– Nguyên Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam, tại thành phố Hồ Chí Minh.
– Trụ trì Tổ Ðình Tường Vân, thành phố Huế, Viện chủ Thiền viện Vạn Hạnh thành phố Hồ Chí Minh.
– Phó Pháp chủ Hội đồng chứng minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Chính vì ngài đã từng kinh qua hàng chục chức vụ lớn nhỏ khác nhau, cho nên Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu đã nhận được nhiều tặng thưởng và huân chương cao quý của nhà nước Việt Nam. Có thể kể đến gồm có:
– Huân chương Hồ Chí Minh.
– Huân chương Ðộc lập hạng nhì.
– Huân chương Ðại đoàn kết và nhiều huy chương, bằng khen và giấy khen.
– Giáo hội Phật giáo Việt Nam tặng Bằng Tuyên dương Công đức.
Những tác phẩm nổi tiếng mà cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu đã dày công biên soạn và biên dịch
Trong suốt cuộc đời tu hành của mình, Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu đã dày công nghiên cứu để biên soạn, biên dịch nên các tác phẩm để đời, góp phần đóng góp vào công cuộc phát triển của nền Phật giáo nước nhà. Các tác phẩm kinh điển của ngài để lại có thể kể đến gồm có:
1. Các bộ kinh thư.
– Trường bộ kinh. (2 tập)
– Trung bộ kinh. (3 tập)
– Tương ưng bộ kinh. (5 tập)
– Tăng chi bộ kinh. (5 tập)
– Tiểu bộ kinh: gồm các tập sau.
a. Pháp cú. (Kinh Lời vàng)
b. Kinh Phật tự thuyết.
c. Kinh Phật thuyết như vầy.
d. Kinh Tập.
e. Trưởng lão Tăng kệ.
g. Trưởng lão Ni kệ.
h. Bổn sanh. (2 tập)
2. Tác phẩm dịch từ Abhidhamma.
Thắng pháp tập yếu luận. (Abhidhammatthasangaha)
3. Các bộ sách viết bằng tiếng Anh.
– Hsuan T’sang, The Pilgrim and Scholar, Huyền Trang – nhà chiêm bái và học giả.
– Fa-Hsien, The Unassuming Pilgrim, Pháp Hiển – nhà chiêm bái khiêm tốn.
– Milindapanha And Ngasenabhikhustra – A comparative study.
– The Chinese Madhyama gama and The Pli Majjhima Nikaya (A comparative study). – Luận án tiến sĩ Phật học.
– Some Teachings Of Lord Buddha On Peace, Harmony And Humadignity.
4. Các bộ sách viết bằng tiếng Việt.
– Phật pháp. (đồng tác giả)
– Đường về xứ Phật. (đồng tác giả)
– Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Đức Phật.
– Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa. (dịch)
– Sách dạy Pali.
– Dàn bài Kinh Trung bộ. (chưa in)
– Toát yếu Kinh Trường bộ. (chưa in)
– Toát yếu Kinh Trung bộ. (chưa in)
– Chữ Hiếu trong đạo Phật. (đồng tác giả)
– Hành thiền.
– Lịch sử Đức Phật Thích ca.
– Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi.
– Chánh pháp và hạnh phúc.
– Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người. (Năm 2002)
– Những mẩu chuyện đạo. (Năm 2004)
– Đức Phật – nhà đại giáo dục. (Năm 2004)
– Đức Phật của chúng ta. (Năm 2005)
– Tâm Từ mở ra, khổ đau khép lại. (Năm 2006)
– Những gì Đức Phật đã dạy. (Năm 2007)
– Hiểu và hành Chánh pháp. (Năm 2008)
– Chiến thắng ác ma. (Năm 2009)