Tiểu sử cuộc đời tu hành hạnh đầu đà của ngài Tôn giả Ma Ha Ca Diếp
Quý vị và các bạn thân mến! Ngài Ma Ha Ca Diếp Tôn giả xuất thân trong một gia đình dòng dõi Bà La Môn rất hào phú, từ khi mới xuất gia ngài đã phát tâm tu khổ hạnh, nguyện sống giữ giới phạm hạnh, thiểu dục và tri túc. Ngài chọn pháp tu 13 hạnh Đầu Đà nhằm mục đích tịnh hóa tâm hồn, sau 8 ngày xuất gia ngài tinh thông thiền định và đắc quả A La Hán. Ngài nêu gương sáng cho chúng Tăng về các hạnh: ít muốn, biết đủ, tinh tấn, viễn ly, dù tuổi đã cao nhưng ngài Ca Diếp vẫn giữ hạnh nguyện độc cư trong rừng, và được Đức Thế Tôn tán thán là Đệ nhất Đầu Đà, một trong 10 Đại Đệ tử đặc biệt ưu tú của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Qua bài viết này, Tôn Giáo Tín Ngưỡng mời quý vị cùng tìm hiểu về ngài Ma Ha Ca Diếp Tôn giả, cùng với pháp môn tu 13 hạnh Đầu Đà, thông qua nội dung chi tiết trong bài viết sau đây.
Mục Lục
Tóm tắt về tiểu sử và quá trình xuất gia tu hành 13 hạnh Đầu Đà của ngài Ma Ha Ca Diếp
Theo lịch sử Phật giáo Ấn Độ, ngài Ma Ha Ca Diếp sinh ra trong một gia đình hào phú Ni Câu Lự Đà Kiệt Ba thôn Sa La Đà, tại nước Ma Kiệt Đà. Ngài Ma Ha Ca Diếp có tên thế danh là Tất Bát La Da Na, cha mẹ của ngài là ông Brahmadatta và bà Dhanavati. Sở dĩ ngài Ma Ha Ca Diếp có tên thế danh Tất Bát La Da Na, là vì thân mẫu của ngài trong lúc sắp sinh, đã đi dạo chơi quanh gốc cây Tất Bát La thì hạ sinh ngài, nên bà đã lấy tên của chính cái cây đó để đặt tên cho con.
Với phước tướng đầy đủ, tư chất thông minh, năm lên 8 tuổi, ngài Ma Ha Ca Diếp được cha mẹ tìm thầy cho ngài theo học văn học, toán thuật, thi họa, âm nhạc, thiên văn, tướng số… cùng các phép tế đàn 4 mùa, thánh điển Vệ Đà… ngài Ma Ha Ca Diếp đều thấu hiểu rất nhanh. Lớn lên ngài Ma Ha Ca Diếp thường tránh xa những đám đông ồn ào và chỉ thích ở riêng một mình.
Khi tới tuổi trưởng thành, vì ngài Ma Ha Ca Diếp là con một nên phải vâng lời cha mẹ thành gia lập thất với nàng Diệu Hiền, một người con gái nết na sắc nước hương trời. Ngài Ma Ha Ca Diếp cùng nàng Diệu Hiền, tuy trên danh nghĩa là vợ chồng nhưng ngay từ ngày cưới hai người họ đã không chung giường, cho đến hơn chục năm về sau không ai nói với ai một lời nào. Sống trong im lặng quá lâu nên ngài Ma Ha Ca Diếp hỏi nàng Diệu Hiền, tại sao mặt nàng lúc nào cũng buồn vậy, nàng có thể nói ra lý do với ta được không? Nàng Diệu Hiền trả lời: “Chàng là người đã phá hoại chí nguyện của em, sự giàu sang của gia đình chàng đã mê hoặc cha mẹ em, từ trước em vẫn thích phạm hạnh, ghét ngũ dục, nên hiện tại về làm dâu gia đình chàng, em rất lấy làm buồn! Nghe nàng Diệu Hiền chia sẻ ước nguyện của mình nên ngài Ma Ha Ca Diếp nói: “Thế là hai chúng ta cùng chung một ước nguyện, cùng nhìn về một hướng. Ta vẫn luôn không thiết tha với việc thành gia lập thất, nhưng vì là con một nên ta đành phải tạm chấp nhận để cho cha mẹ khỏi buồn, ta chỉ tạm thời chiều theo ý của cha mẹ mà thôi. Giờ đây hai chúng ta hãy tiếp tục sống theo phạm hạnh và dù là vợ chồng nhưng chúng ta hãy giữ bản thân luôn được thanh tịnh.
Mãi 12 năm sau, khi cả cha và mẹ đều từ giã cõi đời, ngài Ma Ha Ca Diếp mới từ biệt nàng Diệu Hiền để đi tìm thầy học đạo, ngài Ma Ha Ca Diếp hứa, khi tìm được minh sư ta sẽ trở về hướng dẫn cho nàng cùng tu tập.
Ngài Ma Ha Ca Diếp vào rừng tìm đạo khi tròn 30 tuổi, khi đó cũng là lúc Đức Phật Thích Ca thành đạo dưới cội Bồ Đề. Nghe danh Đức Phật đã thành đạo nên ngài Ma Ha Ca Diếp tìm đến thành Vương Xá, ngày ngày theo Thánh chúng đến nghe pháp. Đức Phật nhìn xuống thấy và biết ngài Ma Ha Ca Diếp là người có thể kế thừa đạo nghiệp của Như Lai.
Tại hội Linh Sơn, khi đức Phật đưa lên một cành hoa Bát la, nhưng chỉ có mình ngài Ma Ha Ca Diếp mỉm cười, Phật biết chánh pháp đã có người tâm đắc để kế thừa sau này. Một hôm, sau khi kết thúc buổi thuyết pháp, Phật đi đường tắt để đứng chờ ngài Ma Ha Ca Diếp ở một ngả đường quen thuộc, ngài Ma Ha Ca Diếp cung kính đỉnh lễ Phật và theo Đức Thế Tôn trở lại Tinh Xá Trúc Lâm, sau đó ngài được Đức Phật giảng giải khai thị cho pháp Tứ Diệu Đế và Thập nhị nhân duyên.
Sau khi gặp Phật và được Đức Thế Tôn khai thị, ngài Ma Ha Ca Diếp cảm nhận căn cơ bản thân mình thích hợp với pháp tu khổ hạnh, ngài tinh tấn tu tập và thực hành theo 13 hạnh Đầu Đà, để có được năng lực tịnh hóa tâm hồn, nhưng khi tu theo hạnh này cần giữ đủ 13 nguyện như sau:
Thứ nhất: Hạnh mặc phấn tảo y, tức là chỉ mặc y bằng vải đã bị vứt bỏ ngoài bãi tha ma hoặc ngoài bãi rác
Thứ hai: Hạnh mặc tam y, tức là chỉ giữ mặc ba y mà Đức Thế Tôn cho phép đó là: Y Tăng-già-lê; Y uất-đà-la-tăng; Y an-đà-hội.
Thứ ba: Hạnh đi khất thực, tức là chỉ sống bằng cách cầm bình bát đi xin ăn.
Thứ tư: Hạnh thứ lớp khất thực, tức là đi khất thực tuần tự theo từng nhà, không chọn lựa địa điểm.
Thứ năm: Hạnh chỉ ăn tại một chỗ ngồi, tức là một ngày chỉ ăn một lần, khi đứng lên khỏi chỗ ngồi thì không ăn nữa.
Thứ sáu: Hạnh ăn trong một bát, tức là chỉ ăn thức ăn có trong bát, không ăn thức ăn khác ngoài bát.
Thứ bảy: Hạnh không ăn hậu thời, tức là khi đã dừng bữa ăn rồi thì không ăn thêm thức ăn khác sau đó nữa.
Thứ tám: Hạnh trú ở rừng, tức là chỉ sống tại khu rừng xa vắng, không cư ngụ ở làng mạc, phố thị.
Thứ chín: Hạnh cư ngụ gốc cây, tức là chỉ sống dưới gốc cây, không ở trong chỗ có che lợp, xây dựng như Am cốc, Tịnh thất, Tịnh xá, Tự viện.
Thứ mười: Hạnh cư ngụ ngoài trống, tức là chỉ ở ngoài trời trống không có mái che, cũng không có bóng cây.
Thứ mười một: Hạnh cư ngụ mộ địa, tức là chỉ ở nơi nghĩa địa, bãi tha ma.
Thứ mười hai: Hạnh theo chỗ chỉ định, tức là chấp nhận bất cứ trú xứ nào mà Tăng chỉ định, không kén chọn tìm chỗ ở vừa lòng.
Thứ mười ba: Hạnh ngồi, tức là chỉ trú với oai nghi ngồi, chỉ trú với oai nghi đi, không nằm.
Trong 13 hạnh nêu trên, ngài Ma Ha Ca Diếp luôn tuân giữ trọn vẹn, cho nên ngài được tôn xưng là bậc “Đầu Đà Đệ nhất”.
Sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni cho người Dì ruột của ngài xuất gia hiệu là Kiều Đàm Di, trở thành vị Ni sư đầu tiên trong giáo đoàn của Phật. Sau đó, ngài Ma Ha Ca Diếp cũng nhờ một Tỳ kheo ni đi đón nàng Diệu Hiền về Ni viện, vì nàng Diệu Hiền có sắc đẹp kiều diễm nên không tránh khỏi sự bàn tán xì xầm nơi chốn đông người, nàng không ra ngoài khất thực, không tiếp xúc với đại chúng và tránh chỗ đông đúc. Thấy vậy, nên hằng ngày ngài Ma Ha Ca Diếp chia nửa phần cơm của mình và nhờ người mang đến cho nàng Diệu Hiền.
Những người tò mò có tính soi mói thị phi lại sinh tâm tật đố kỵ, dựng chuyện cho là giữa ngài Ma Ha Ca Diếp và nàng Diệu Hiền vẫn còn vương vấn tình cảm vợ chồng. Để tránh tiếng, ngài Ma Ha Ca Diếp không chia phần cơm của mình cho nàng Diệu Hiền nữa; còn bản thân Tỳ kheo ni Diệu Hiền thì ngày đêm không ăn không ngủ, nhiếp tâm tịnh tọa sám hối tấn tu đạo nghiệp, chứng đắc Túc mạng thông và được Đức Thế Tôn hết lòng khen ngợi.
Một thời Đức Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Veluvana. Rồi Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đi đến cung kính đỉnh lễ Đức Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn nói với Tôn giả Ma Ha Ca Diếp:
Này Ma Ha Ca Diếp, ông đã già rồi, giống như những tấm vải gai thô bị cũ nát đáng được quăng bỏ. Này Ma Ha Ca Diếp, ông hãy mang những y áo do các thiện nam tín nữ dâng cúng, thụ dụng những món ăn được mọi người mời và hãy ở gần bên Ta.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bèn đáp; Bạch Thế Tôn, con là người đã lâu nay sống ở trong rừng, quen đi khất thực và quen mặc y phấn tảo, sống thiểu dục tri túc, không giao thiệp và thường tinh tấn tu hành. Đức Thế Tôn lại hỏi; này Ma Ha Ca Diếp, ông thấy có lợi ích gì với việc mà đã lâu nay ông sống ở trong rừng, đi khất thực, mặc y phấn tảo, sống thiểu dục tri túc, không giao thiệp và thường tinh tấn tu hành?
Ngài Ma Ha Ca Diếp đáp; Bạch Đức Thế Tôn, con thấy có hai lợi ích đó là, thứ nhất, tự mình được an lạc và vì lòng từ mẫn mong rằng chúng sanh sẽ học tập theo. Thứ hai, nếu ai thực hành được như vậy trong một thời gian dài, thì họ sẽ sống an lạc và hạnh phúc. Đức Thế Tôn nói, Lành thay lành thay, này Ma Ha Ca Diếp, ông thực hành như vậy vì lợi ích cho khắp cả chúng sanh, vì lòng từ mẫn với đời, vì an lạc cho tất cả chư Thiên và loài người. Này Ma Ha Ca Diếp, ông hãy mang vải gai thô đáng được quăng bỏ, hãy sống khất thực bằng bình bát và trú xứ ở trong rừng.
Khi Đức Thế Tôn và ngài Ma Ha Ca Diếp về tuổi lão niên, theo thời gian và quy luật tự nhiên cả hai ngài đều không còn khỏe mạnh như xưa. Và rất nhiều lần Đức Thế Tôn đã mời ngài Tôn giả Ma Ha Ca Diếp về Tinh xá, nơi có đời sống ổn định và thích hợp với tuổi già hơn ở trong rừng, nhưng ngài Tôn giả Ma Ha Ca Diếp nhất quyết từ chối.
Ngài xuất thân từ một dòng dõi Bà la môn hào phú, khi mới xuất gia ngài Ma Ha Ca Diếp đã phát tâm tu khổ hạnh, nguyện sống giữ giới phạm hạnh, thiểu dục tri túc. Cho đến lúc tuổi già sức yếu, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp vẫn chọn lối sống khất thực, mặc y phấn tảo thô rách, sống lang thang trong những khu rừng cô tịch cho đến cuối đời.
Điều gì đã giúp Tôn giả Ma Ha Ca Diếp thực hành phạm hạnh viên mãn? Tự thân ngài đạt được an lạc và mục đích của đời sống phạm hạnh, đó chính là pháp thoại sống động thuyết phục nhất, để tất cả chúng sanh học tập, noi theo. Ngài xứng đáng được tôn xưng vào hàng bậc Thánh Đệ nhất giữ giới phạm hạnh, từ nội tâm giải thoát cho đến cuộc sống đời thường.
Dù môi trường tu tập và hoằng pháp của chư Tăng ngày nay đã khác xưa, nhưng tấm gương sáng về 13 Hạnh Đầu Đà của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, gần 2600 năm qua, vẫn là giáo pháp căn bản nhất cho chúng ta học tập. Sự sung mãn về vật chất, những tiện nghi cần thiết là phương tiện cho chúng ta thực thi Phật sự, song phẩm chất phạm hạnh và tuệ giác mới là chất liệu đích thực để tác thành nên nhân cách của những bậc chân tu chánh pháp.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp – Lòng từ bi của Ngài khiến đất trời phải cảm động
Một vị Tôn giả Đại đệ tử của Đức Thế Tôn được Chư Thiên và mọi người quý kính, nhưng ngài lại chấp nhận thọ thực một bát nước gạo chua lòm, khi người ta vứt bỏ bên đường và được một bà lão ăn xin đem dâng cúng dường, với nguyện ý mong cho bà được nhiều phước lành và sẽ thoát khỏi cảnh khổ cực.
Con người có sự nhìn nhận sai biệt về phước. Tùy theo phước của mỗi người mà chúng ta nhận được sự giàu có, sang quý hay thiếu thốn, nghèo hèn khác nhau… Người dày phước thì được nhiều người trân trọng, quý kính, còn người mỏng phước thường bị cuộc đời xã hội bỏ quên. Thế nhưng, những người đạo đức và trí tuệ họ sẽ không để phước bị chi phối, họ đối xử với tất cả mọi người đều bình đẳng với lòng từ bi thật sự. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp chính là một người như vậy. Lòng từ bi của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp được ví như ánh ban mai ấm áp phủ trùm khắp tất cả mọi chúng sinh. Tuy nhiên, bằng sự thương cảm và độ lượng của một bậc Thánh A La Hán, ngài Ma Ha Ca Diếp thường hướng tâm đến những người nghèo khổ, dành cho họ có cơ hội nhận phước cúng dường cho các bậc Thánh Tăng, để họ đủ phước thoát khỏi những khó khăn, thiếu thốn trong kiếp hiện tại và vô lượng kiếp ở tương lai.
Một hôm, khi vào thành Vương Xá khất thực, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp nhìn thấy một bà lão ăn mày với vẻ ngoài rách rưới, đau khổ đang nằm thoi thóp trên mặt đất. Bà nghèo đến nỗi không có nổi một bộ quần áo để mặc, phải dùng lá cây để làm quần áo che thân. Mọi người đều nhìn bà bằng một ánh mắt khinh bỉ và xa lánh vì bà đang bị bệnh rất nặng.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp lặng lẽ ôm bình bát tiến lại gần bà lão.
Bà nhìn thấy trước mặt mình là một vị Sa môn uy nghi và hiền từ đức độ. Bà lão hiểu ý ngài và nói:
Thưa Tôn giả! Vì con quá nghèo nên con không biết lấy gì để cúng dường cho ngài, không có một ai trên đất nước này nghèo hơn con cả. Đã ba ngày qua con không có chút gì để cho vào bụng, sáng sớm hôm nay con thấy có người đi đổ nước gạo, con có hứng được một chút nhưng con chưa dám uống vì nó có vị chua lòm.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp nói:
Ta hiểu hoàn cảnh và sự đau khổ của bà, cũng chỉ vì sự phung phí ở kiếp trước mà kiếp này bà phải chịu sự nghèo khổ như hiện tại. Người ta có thể cho bà chút thức ăn, nước uống nhưng nó chỉ giúp cho bà cầm cự được qua ngày, tương lai bà sẽ vẫn tiếp tục gặp nhiều đau khổ. Điều mà bà có thể làm bây giờ là sám hối nghiệp đã làm từ kiếp trước và tìm cách bố thí, san sẻ, cúng dường. Đặc biệt là khởi lên lòng tôn kính đối với Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo.
Bà lão chợt hiểu ra những lời khai thị của Tôn giả và xúc động nhìn quanh, chỉ còn chút nước gạo vừa hấng được bên đường, bà lão ngại ngùng nhìn Tôn giả. Ngài Ma Ha Ca Diếp nhìn bà bằng ánh mắt từ bi đầy hoan hỷ chấp nhận. Bà lão tay run run sẻ phần nước gạo đã bị chua lòm vào bình bát của Tôn giả. Ngài Ma Ha Ca Diếp chúc những điều tốt lành tới bà lão rồi lặng lẽ ôm bình bát rời đi. Những người xung quanh không ai có thể kìm nén được sự xúc động khi chứng kiến hoàn cảnh ấy.
Một vị Tôn giả Đại đệ tử của Đức Thế Tôn được Chư Thiên và người người tôn kính, lại chấp nhận thọ thực một bát nước gạo chua lòm của một bà lão ăn xin cúng dường, với hạnh nguyện mong cho bà có được nhiều phước lành để thoát khỏi cảnh khổ cực. Tấm lòng từ bi của ngài Ma Ha Ca Diếp khiến đất trời cũng phải cảm động. Chính vì vậy mà bất kì ai, cho dù là Chư Thiên ở trên cõi Trời hay mọi người ở cõi phàm nhân, nếu ai kính ngưỡng hoặc cúng dường ngài Ma Ha Ca Diếp đều được phước báo thù thắng vô lượng.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp thừa kế Đức Thế Tôn và kết tập Kinh điển
Thấy ngài Ma Ha Ca Diếp đạo cao đức trọng, Đức Thế Tôn và giáo đoàn đều vị nể. Trọn giữ Hạnh Đầu Đà, lúc nào ngài Ma Ha Ca Diếp cũng trú ở trong rừng già, kinh hành hoặc tọa thiền dưới gốc đại thụ, quán nắm xương trắng ở bãi tha ma, chẳng quản đêm ngày nắng mưa, sương gió… Mãi đến lúc tuổi già râu tóc bạc phơ, thân thể gầy guộc nhưng ngài vẫn không bao giờ chểnh mảng việc tu hành.
Ngài thực hành phạm hạnh Đầu Đà là trực tiếp củng cố giáo đoàn, gián tiếp làm lợi lạc chúng sinh, củng cố tăng đoàn là điều kiện để thừa kế Đức Phật. Đức Thế Tôn dạy rằng: “Này các Tỳ kheo! Tôn giả Ma Ha Ca Diếp luôn luôn lo ngại cho tiền đồ chính pháp. Thiên ma ngoại đạo hay thế lực cường quyền không thể phá hoại được chính pháp, chỉ có nội đạo lộn xộn, Tăng đoàn hủ hóa thiếu phạm hạnh tu hành, là điều kiện chính làm cho chính pháp bị tiêu diệt, “Trùng trong sư tử ăn thịt sư tử.” Vì thế, nếu Tăng đoàn luôn được củng cố, giới đức luôn giữ thanh tịnh trang nghiêm, nội tình ổn định hòa hợp thì tất yếu chính pháp được trường tồn. Để củng cố cho Tăng đoàn luôn được vững mạnh, khi sinh hoạt Tăng chúng phải nghiêm túc, giới luật phải được tôn trọng giữ gìn, nếu giới luật còn thì đạo ta còn. Người có thể chủ trì thừa kế chính pháp của ta phải là Tôn giả Ma Ha Ca Diếp”.
Sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn 7 ngày, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp liền triệu tập hội nghị kết tập Kinh điển trong 3 tháng liên tiếp. Đại chúng nhất trí đề cử Tôn giả Ma Ha Ca Diếp làm chủ tọa.
Sau cuộc kết tập Kinh điển đầu tiên, khoảng ba mươi năm sau, ngài Ma Ha Ca Diếp cảm thấy cơ thể đã già yếu, mệt mỏi vì đã trên trăm tuổi, Tôn giả quyết định nhập Niết Bàn. Ngài tìm đến nơi ngài A Nan đang du hóa để phú chúc pháp tạng, ngài Ma Ha Ca Diếp yêu cầu ngài A Nan tiếp nối sứ mạng thừa kế truyền bá chính pháp, rồi ngài đi đến 8 tháp thờ Xá Lợi Phật để lễ lạy cúng dường. Sau đó, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp mang theo y bát của Đức Thế Tôn đến núi Kê Túc, ngồi nhập định rồi nhập Niết Bàn.
Mặc dù Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đã nhập diệt Niết Bàn, nhưng những ảnh hưởng nếp sống đạo đức, phạm hạnh tu hành của Tôn giả vẫn còn trường tồn mãi mãi với thời gian… Suốt cả cuộc đời tu hành khổ hạnh, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp trở thành một vị chân tu gương mẫu trong giáo đoàn, phẩm hạnh có tầm ảnh hưởng rộng khắp bao trùm. Đức Thế Tôn cũng vị nể xem ngài Tôn giả Ma Ha Ca Diếp như một người bạn, có lần Đức Phật đã nhường nửa tòa ngồi giảng pháp cho ngài Tôn giả. Gương của ngài Ma Ha Ca Diếp chính là, người có tư cách đạo đức tốt thì bao giờ cũng được người người kính nể, ngược lại những người không tư cách đạo đức cho dù có giàu mạnh đến đâu, nhưng cuối cùng cũng bị chính cuộc đời đào thải.