Tiểu sử cuộc đời và đạo nghiệp tu hành của cố Hòa thượng Thích Giác Khang
Quý vị và các bạn thân mến! Cố Hòa thượng Thích Giác Khang là một trong những vị thiền sư vĩ đại, ngài đã gắn bó và cống hiến cả cuộc đời mình cho đạo Phật. Hòa thượng là người truyền cảm hứng đến cho rất nhiều chư Tăng ni, Phật tử trên khắp cả nước, ngài luôn cứu khổ cứu nạn, làm việc tốt giúp đời. Qua bài viết này, Tôn Giáo Tín Ngưỡng sẽ giúp quý vị và các bạn tìm hiểu rõ hơn về tiểu sử cuộc đời, đạo nghiệp tu hành của cố Hòa thượng Thích Giác Khang, thông qua nội dung chi tiết trong bài viết sau đây.
Mục Lục
Tiểu sử cuộc đời cố Hòa thượng Thích Giác Khang
Cố Hòa thượng Thích Giác Khang có tên thế danh là Tô Văn Vinh. Ngài vốn sinh vào năm 1941 tại tỉnh Bạc Liêu, hiện chưa rõ ngày tháng sinh cụ thể. Hòa thượng sinh ra và lớn lên trong gia đình nông dân nghèo, ngài là người con thứ 8 trong gia đình. Thân phụ, thân mẫu của Hòa thượng là cụ ông Tô Khanh và cụ bà Trần Thị Vén, hai cụ sinh được tất cả 5 người con trai và 5 người con gái. Hòa thượng Thích Giác Khang được cha mẹ cho ăn học đến nơi đến chốn, ngài đã tốt nghiệp Tú Tài và tiếp tục học Cao đẳng Sư phạm, khi ra trường ngài được cử đi dạy học ở huyện Cái Côn, tỉnh Cần Thơ.
Trong thời gian đi dạy học, Hòa thượng Thích Giác Khang có nghiên cứu sơ lược về các Tôn giáo khác nhau, trong đó có Phật giáo. Điều bất ngờ là ngài đã cảm nhận được lời dạy của Đức Phật qua câu “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Từ đó giúp ngài ngộ được giáo lý Bình đẳng của đạo Phật, ngài đã tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về giáo lý Phật giáo và đến tham vấn nhiều chư Tăng về sự xuất gia cũng như giáo lý Phật-đà. Do ngài cảm nhận được lòng từ bi của chư Phật qua giáo lý ăn chay cho nên ngài đã quyết tâm phát tâm trường chay.
Sau một thời gian thấm nhuần lời Phật dạy và những lợi ích của sự xuất gia giải thoát. Vào đầu năm 1966, Hòa thượng Thích Giác Khang phát nguyện xuất gia tu học nương theo Bổn Sư là Đức Tri Sự Giác Như, tại Tịnh Xá Ngọc Vân, được tọa lạc số 260, đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường 7, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Cũng trong năm đó, ngài đã thọ giới Sa-Di tại Tịnh xá Ngọc Vân.
Vào tháng 7/1971, Hòa thượng Thích Giác Khang thọ giới cụ túc Tỳ-Kheo, tại Tịnh Xá Ngọc Viên, được tọa lạc tại số14/20/2, đường Xóm Chài, phường 2, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Sau đó, Hòa thượng Thích Giác Khang được luân chuyển đến các Tịnh Xá Giáo Đoàn I để tu học, nhằm góp phần cùng chư Tăng hoằng pháp độ sinh tại các trú xứ.
Vào năm 1975, Hòa thượng Thích Giác Khang theo đoàn Du Tăng Khất Sĩ của Đức Nhị Tổ cùng chư Tăng trong đoàn hành đạo tại tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau.
Đến năm 1980, Hòa thượng Thích Giác Khang theo đoàn hành đạo về huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
Năm 1982, Hòa thượng Thích Giác Khang trở về Tịnh Xá Ngọc Vân, tỉnh Trà Vinh tu học để phụ tiếp với Đức Tri sự Bổn Sư Giác Như.
Không chỉ tại địa phương, mà ngay tại các đạo tràng có nhu cầu thỉnh pháp, Hòa thượng Thích Giác Khang đều đến để thuyết giảng các bài chánh pháp. Có thể kể tới những đạo tràng như:
Tịnh Xá Ngọc Trường, tọa lạc bên quốc lộ 53, phường 8, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.
Chùa Phước An, tọa lạc tại xã Hiệp Mỹ Đông, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh.
Chùa Phước Thành, tọa lạc tại Kim Hòa Ấp Trà Cuôn, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh.
Chùa Thanh Quang, tọa lạc bên quốc lộ 54, xã Mỹ Chánh, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.
Các Tịnh Xá ngoài tỉnh khác cũng mời ngài về tham vấn như Tịnh Xá Ngọc Lợi, tọa lạc tại số 200/9, đường Hòa Bình, khóm 6, phường 7, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
Tịnh Xá Ngọc Viên, tại số14/20/2, đường Xóm Chài, phường 2, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Sau đó, đoàn hành hương của Hòa thượng Thích Giác Khang đã có dịp đi đến Thái Lan để thăm viếng các chùa, đoàn dừng chân khoảng 1 tuần tại Thái Lan rồi tiếp tục hành trình đi Miến Điện để chiêm bái các Thánh tích.
Tuy nhiên, sau khi kết thúc chuyến đi dài ngày nơi xứ người, sức khỏe của Hòa thượng Thích Giác Khang đã yếu dần, các chư Tăng và quý Phật tử trong đoàn rất tận tình chăm sóc. Nhưng khi này, Hòa thượng Thích Giác Khang cảm nhận, mình sắp không còn trụ tại thế được nữa, nên ngài đã trình tâm nguyện lên Hòa thượng Giác Giới, Tri Sự trưởng Giáo Đoàn 1 liễu tri, để Hòa thượng Giác Giới tạo duyên tu học cho chư Tăng và chư Phật tử trong đạo tràng Tịnh xá Ngọc Vân.
Vào lúc 15 giờ ngày 30 tháng 3 năm Quý Tỵ, Hòa thượng Thích Giác Khang đã thu thần thị tịch, ngài đã trụ tại thế 72 năm và được 47 năm tuổi đạo. Hòa thượng viên tịch, đã để lại vô vàn sự kính tiếc của chư Tăng Ni và toàn thể quý Phật tử xa gần trên khắp cả nước.
Đạo nghiệp tu hành của cố Hòa thượng Thích Giác Khang
Thời kỳ bắt đầu tu hành và học tập của Hòa thượng Thích Giác Khang có lẽ phải kể đến 4 giai đoạn quan trọng nhất sau đây:
Thời kỳ thứ nhất.
Vào năm 1966, Hòa thượng Thích Giác Khang bắt đầu xuất gia theo hệ Khất sĩ tại Tịnh Xá Ngọc Vân thuộc tỉnh Trà Vinh. Ngài có 2 Bổn Sư chính, đó là Nhị Tổ Giác Chánh và Đức Tri sự Giác Như.
Trong giai đoạn từ năm 1968 đến năm 1983, Hòa thượng Thích Giác Khang đã theo học Nhị Tổ Giác Chánh, đi hành đạo khắp nơi ở miền Tây Nam Bộ. Ngài đã được học “Chơn lý” và hành trì “Trú dạ lục thời” theo giáo lý Khất sĩ của Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang.
Cũng trong giai đoạn này, Hòa thượng Thích Giác Khang thường xuyên nhập định Tam Thiền. Ngài thường xuyên tìm chỗ vắng vẻ, để nhập Thiền định từ 7 đến 9 tiếng đồng hồ mỗi ngày, để có thể nghiền ngẫm thuần thục bộ “Chơn lý”. Nhưng trong quá trình tu học, Ngài cảm thấy bế tắc về Bát nhã, về con đường giải thoát và cảm thấy thất vọng vô cùng.
Trong lúc chán nản, Hòa thượng Thích Giác Khang chợt nhìn trên kệ kinh, thấy quyển “Đường vào hiện sinh” của Kisnamurti, do Trúc Thiên dịch. Hòa thượng Thích Giác Khang đã đọc và khi này ngài đã ngộ được Chân lý Bát nhã. Kể từ đó, ngài chỉ tìm đọc những quyển sách do Trúc Thiên, hay cụ Mai Thọ Truyền dịch, Duy thức học của Giáo sư Thạc Đức, quyển Phật học tinh hoa của Nguyễn Duy Cần…
Vào năm 1983, do tình hình thời thế có sự thay đổi, Hòa thượng Thích Giác Khang trở về Tịnh Xá Ngọc Vân. Đến năm 1985, Đức Tri sự Giác Như viên tịch, đã giao nhiệm vụ trụ trì lại cho ngài. Khi trở về Tịnh xá Ngọc Vân, trong các buổi cúng hội, Ngài giảng chuyên về Chơn lý và dạy tu thiền định. Qua sự giảng dạy thu hút chư phật tử rất đông.
Hòa thượng Thích Giác Khang lấy “Giới-Định-Tuệ” và “Trú dạ lục thời” làm gốc trên con đường tu tập của mình. Hôm đó, trong lúc Thiền định, ngài ngấm ngộ Tứ Diệu Đế và ngay sau khi xả định, trong alaya tuôn trào, Hòa thượng đã viết cuốn “Tứ Diệu Đế” liên tục trong vòng 15 phút.
Thời kỳ thứ hai.
Sau thời gian giảng dạy tại Tịnh xá Ngọc Vân, Hòa thượng Thích Giác Khang bị lâm trọng bệnh. Sau những ngày mê man, khi tỉnh dậy ngài đã suy nghĩ rất nhiều, trong thời buổi này việc tu pháp môn Thiền tông khó mà đắc Thánh quả. Chính vì vậy, ngài nghĩ rằng pháp môn Tịnh Độ nếu hành đúng sẽ được vãng sanh về thế giới Cực lạc thì một đời sẽ thành Phật. Khi này, ngài nhờ chư Phật tử thỉnh quyển kinh A Di Đà của Tri Húc Đại Sư. Ngài đọc được câu thơ: “có Thiền, có Tịnh như cọp mọc thêm sừng” của Đại Sư Vĩnh Minh và từ đó quyết định “Thiền-Tịnh song tu” cho đến ngày viên tịch.
Hòa thường Thích Giác Khang bắt đầu nghiên cứu các kinh sách về Tịnh Độ Tông, như pháp môn Tịnh Độ của Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Lá Thư Tịnh Độ của Ngài Ấn Quang Đại Sư, Niệm Phật Tập Yếu của Ngài Thiền Tâm… Sau đó, ngài còn kết hợp giảng dạy Thiền Tông với Tịnh Độ Tông cho chư Phật tử. Trong các bài giảng dạy, ngài hay đặt ra 6 câu hỏi về pháp môn Tịnh Độ, Phật tử từng bước trả lời các câu hỏi đó. Tuy nhiên về sau, khi nhiều ngôi chùa và đạo tràng thỉnh ngài giảng trong các ngày Phật thất, ngài đã thêm một câu hỏi nữa, đến nay là tổng cộng có 7 câu hỏi về pháp môn Tịnh Độ.
Trong 7 câu hỏi đó, có câu hỏi cuối cùng rất đặc biệt: Tu Tịnh Độ có chắc chắn được vãng sanh không? Hòa thường Thích Giác Khang trả lời và kết luận câu này như sau: “Tu pháp môn Tịnh độ, nếu có đầy đủ Tín-Hạnh-Nguyện và Nguyện lực chí thành, thì chắc chắn sẽ được vãng sanh 101%.
Thời kỳ thứ ba.
Qua kinh Trung Bộ, Hòa thượng Thích Giác Khang đã đọc được bài kinh Sáu Sáu. Ngài nhận thấy Đức Phật giảng thực tế đi vào trong cuộc sống, sau khi Đức Phật giảng xong có 60 vị Tỳ kheo đắc quả A La Hán. Từ đây, mỗi ngày ngài đều phối hợp Duy thức giảng bài kinh Sáu Sáu. Tuy nhiên, ngài thấy lối giảng này chưa được sáng tỏ, ngài khi này tiếp tục tìm chỗ ẩn tu để suy ngẫm vào chiều sâu. Sau đó, Hòa thượng Thích Giác Khang tìm đến Sư Thức, đang tu pháp môn Tịnh Độ ở tỉnh Sa Đéc. Đây cũng là vị Sư được Nhị Tổ rất quan tâm, cũng là vị Sư mà ngài thường hay nhắc đến trong lúc giảng pháp.
Trong thời gian tịnh tu, Hòa thượng Thích Giác Khang đã đặt thêm 4 câu hỏi nữa, tổng cộng là 10 câu hỏi của bài kinh Sáu Sáu. Ngài rất tâm đắc đoạn kinh Đức Phật chỉ dạy Ngài A Nan, nhận lại Bát nhã qua 6 căn ngay trong lúc đánh chuông. Bên cạnh đó, ngài còn nghiên cứu thêm về kinh Thủ Lăng Nghiêm, do bác sĩ Tâm Minh, Lê Đình Thám biên dịch.
Sau khi kết thúc khóa giảng lần 2, Hòa thượng Thích Giác Khang cảm thấy vẫn chưa vừa ý, nên ngài đã đi tịnh tu tại Đà Lạt, do phật tử Tịnh Giới cất cái cốc dưới thung lũng xa thành phố cho ngài. Trong thời gian này, ngài thường đi vào rừng sâu, suối, thác để nương cảnh tạo tâm.
Năm 2007, chư Phật tử thỉnh Hòa thượng Thích Giác Khang giảng bài kinh Sáu Sáu lần 3. Ngài giảng bài kinh Sáu Sáu phối hợp giữa kinh Nguyên thủy, Đại thừa, Tiểu thừa. Ngài chọn bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, Duy thức cùng bộ sách của cụ Nghiêm Xuân Hồng và pháp môn Tịnh Độ, lồng vào bài giảng kinh Sáu Sáu. Lần này, ngài giảng đi vào chiều sâu của Bát nhã, để có thể giúp chư Phật tử ứng dụng ngay trong thực tế cuộc sống.
Thời kỳ thứ tư.
Trong thời kỳ này, sức khỏe của Hòa thượng Thích Giác Khang bắt đầu có dấu hiệu giảm sút. Ngài định an trí và thường nói cho một ít Phật tử thuần thành rằng, ngài đã lựa chọn Sư Minh Hiệp để sau này kế thừa ngài, sau khi Ngài viên tịch thì Sư Minh Hiệp sẽ có trách nhiệm hướng dẫn Tăng chúng.
Kế đến, Hòa thượng Thích Giác Khang cho gọi thêm vài Phật tử kết tập lại bài giảng của Ngài qua 5 chuyên đề: Muốn vãng sanh về xứ Cực lạc của Phật A Di Đà, chúng ta cần có mấy điều kiện sau: Nhận thức về Tái sanh. Chứng ngộ. Vãng sanh. Khổ Đế về Nhân – Sinh – Quan. Khổ Đế về Vũ – Trụ – Quan. Nhân quả và nghiệp. Các chuyên đề này, đã được ngài giám sát chặt chẽ lối hành văn, có diễn đạt sáng tỏ giữa tư tưởng và Bát nhã hay không, có rơi vào ngũ ấm ma hay không.
Bên cạnh đó, Hòa thượng Thích Giác Khang còn lo lắng về nơi, để chư Phật tử có thể tu Thiền định dễ dàng, đồng thời giúp đỡ cho những người nghèo khó. Khi này ngài đã lập ra quán cơm gạo lứt từ thiện, ngài còn lập Ban Hộ niệm để giúp đỡ cho những người sắp lâm chung được vãng sanh về thế giới Cực lạc.
Năm 2012, Phật tử thỉnh Hòa thượng Thích Giác Khang, giảng bài kinh Sáu Sáu lần thứ tư. Đợt giảng này quy tụ rất đông những Phật tử mới, trong những buổi giảng đầu tiên ngài đưa ra 3 câu chuyện: Tổ Bồ Đề Đạt Ma và vua Lương Võ Đế, Sư Huyền Giác và Lục Tổ Huệ Năng, Bảy trạm xe để trắc nghiệm lại trình độ Phật pháp của Phật tử. Hòa thượng Thích Giác Khang thường khuyên Phật tử, nên tổ chức đi đến sông lớn, biển Ba Động ngồi Thiền định, để thấy được cảnh mông lung, bao la mà soi rọi lại tâm của mình. Sau khi trắc nghiệm xong, ngài thấy cần phải quay trở lại giảng “Bài học vỡ lòng” đó là: Bốn Đường Ác và Người Trời Dục Giới cho đến lúc Ngài đi Ấn Độ.
Hòa thượng Thích Giác Khang là một bậc Thiền sư cao quý, chân sư đạo hạnh trong Hệ phái Khất Sĩ. Ngài đã đem cả cuộc đời phụng sự và hiến dâng cho đạo pháp. Trong suốt cuộc đời của Hòa thượng, ngài luôn là một tấm gương sáng, mẫu mực về đạo đức, hạnh tiết thực, xả ly và hướng đến đời sống đạo hạnh.
Một số bài giảng hay nhất của cố Hòa thượng Thích Giác Khang
Cố Hòa thượng Thích Giác Khang bên cạnh các công việc thiện nguyện, tu hành và đào tạo chúng Tăng ni, thì ngài còn rất thường xuyên tham gia vào việc giảng giải kinh Phật và hoằng dương tới đại chúng. Những bài giảng của ngài chứa đựng nhiều giá trị ý nghĩa cốt lõi, vị nhân sinh, được rất nhiều Phật tử khắp nơi mến mộ và theo dõi. Độc giả có thể tìm kiếm các bài giảng của ngài trên các kênh mạng xã hội phổ biến như Facebook, Youtube.
Một số bài giảng hay nhất của cố Hòa thượng Thích Giác Khang, có thể kể đến gồm có các bài như sau:
– Khai Thị Vãng Sanh.
– Mười Pháp Giới Của Đạo Phật.
– Pháp Môn Tịnh Độ.
– Xá Lợi.