Tổ sư Minh Đăng Quang
Đạo Phật

Tiểu sử Sơ tổ Minh Đăng Quang vị Thánh tăng của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam

5/5 - (9 bình chọn)

Quý vị và các bạn thân mến! Tổ sư Minh Đăng Quang là một vị Thánh tăng, ngài chính là Sơ tổ, người sáng lập nên Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam, ngài phát nguyện xuất gia ngay từ khi tuổi còn niên thiếu, với một trí tuệ sáng suốt và nghị lực phi thường. Ngài Minh Đăng Quang tu theo hạnh độc giác, vô sư tự ngộ, với tông chỉ nối truyền Phật Thích Ca Chánh pháp. Vì ngài Minh Đăng Quang sinh vào thời đất nước đang bị giặc xâm lăng, nên quá trình tu hành của ngài đã phải trải qua vô vàn gian khổ. Qua bài viết này, Tôn Giáo Tín Ngưỡng sẽ giúp quý thiện hữu cùng tìm hiểu về tiểu sử thân thế, quá trình xuất gia thành đạo rồi độ chúng của Tổ sư Minh Đăng Quang, thông qua nội dung chi tiết trong bài viết sau đây.


Xem Video Trên Kênh YouTube 

Tổ sư Minh Đăng Quang
Tổ sư Minh Đăng Quang

Tiểu sử ngài Minh Đăng Quang vị Sơ tổ của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam

Ngài Tổ sư Minh Đăng Quang, có tên thế danh là Nguyễn Thành Đạt, tự là Lý Hườn, ngài sinh vào ngày mùng 4 tháng 11 năm 1923, tức ngày 26 tháng 9 năm Quý Hợi, ( âm lịch ). Tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, đó là làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, Tỉnh Vĩnh Long, nước Việt Nam.

Tổ sư Minh Đăng Quang
Tổ sư Minh Đăng Quang

Thân phụ thân mẫu của ngài là cụ ông Nguyễn Tồn Hiếu và cụ bà Phạm Thị Nhàn, gia đình ngài Minh Đăng Quang vốn có nề nếp theo đạo thánh hiền, tu nhân tích đức, là một gia đình hiền lương nhân nghĩa. Hai cụ sinh được tất cả năm người con, ngài Minh Đăng Quang là con trai út trong nhà. Bốn anh chị của ngài đều được thân mẫu thụ thai và sinh nở bình thường, nhưng đặc biệt lần thứ năm sinh ngài, thân mẫu đã phải mang thai đến tận 12 tháng. Sau khi thân mẫu sinh ngài được tròn mười tháng, thì đột nhiên cụ bà lâm trọng bệnh rồi qua đời, vào ngày 25 tháng 8 năm 1924, tức ngày 25 tháng 7 năm Giáp Tý, ( âm lịch ), hưởng dương 32 tuổi. Sau một thời gian thì thân phụ của ngài lập thiếp, từ đó ngài Minh Đăng Quang đã được kế mẫu là cụ bà Hà Thị Song nuôi dưỡng, cho đến ngày ngài trưởng thành. Thân phụ của ngài mất ngày mùng 2 tháng 2 năm 1968, tức ngày mùng 5 tháng giêng năm Mậu Thân, ( âm lịch ), hưởng thọ 75 tuổi.

Thân Phụ Thân Mẫu và các anh chị của Tổ sư Minh Đăng Quang
Thân Phụ Thân Mẫu và các anh chị của Tổ sư Minh Đăng Quang

Ngài Minh Đăng Quang sinh ra và lớn lên ở một vùng quê sông nước, ngài có trí thông minh khác hơn những bạn trẻ cùng trang lứa. Phong cách ăn, mặc, đi, đứng, lời nói, việc làm của ngài đều thể hiện là một người có đức tính trang nghiêm, khiêm cung điềm đạm hơn chúng bạn. Vì vậy mà ngay từ tuổi niên thiếu ngài đã được thân phụ, kế mẫu, cùng các anh chị trong gia đình hết mực yêu quý, mọi người trong xóm ngoài làng, ai ai cũng đều một lòng thương mến ngài. Đến tuổi đi học, ngài Minh Đăng Quang luôn chăm chỉ học hành, hễ thầy giảng dạy tới đâu là ngài thông hiểu tới đó, càng ngày càng hiện rõ tư chất thông minh hiếu học.

Ngoài thời gian học tập ở trường, ngài Minh Đăng Quang luôn giúp đỡ cha mẹ làm những công việc nhỏ trong nhà. Đặc biệt, ngài dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu tìm hiểu về các tôn giáo, nhất là tam giáo: Thích – Đạo – Nho, được ngài nghiên cứu rất kỹ lưỡng. Nhờ vậy mà ngài Minh Đăng Quang nói chuyện vãn với những người thiện duyên mỗi khi gặp gỡ, dù quen hay lạ, ngài đều luận giải được mọi vấn đề rất rõ ràng nên được người người nể phục.

Vốn sẵn có căn bản đạo đức và nề nếp nho phong, nên ngài Minh Đăng Quang thường hay tìm tới các nhà đạo đức trưởng thượng đương thời để tham vấn về đạo lý. Trong thời gian này, ngài đã dựng lên một ngôi thất nhỏ ở phía sau nhà, để hằng ngày tiện bề ngài tham thiền tu tập. Ngài Minh Đăng Quang thường hay trầm tư mặc tưởng, thường thì cả tiếng đồng hồ, nhưng cũng có khi lên đến cả nửa ngày. Ngài ngồi đăm chiêu trong tĩnh lặng và hướng mắt về phía chân trời bao la, như đang suy nghĩ đến một điều gì đó mà chưa thể giải quyết được.

Quá trình xuất gia, sự thử thách và đạo quả của Tổ sư Minh Đăng Quang

Với tinh thần quyết chí hướng thượng, nên nhiều lần ngài Minh Đăng Quang xin phép  thân phụ để được đi xuất gia tầm cầu chân lý. Vì quá thương con tuổi còn niên thiếu, một mình vân du nơi xứ lạ quê người, nơi núi rừng cô tịch, hay hang động thâm sơn cùng cốc, nên thân phụ của ngài nhất định ngăn cản. Tuy không được thân phụ đồng ý, nhưng ngài Minh Đăng Quang cũng không vì sự luyến ái đó mà bỏ dở chí đăng sơn. Qua rất nhiều đêm suy nghĩ, ngài Minh Đăng Quang đã tự nhủ với lòng, mình không thể là một người tầm thường như bao người trong kiếp nhân sinh, cứ để bản thân mãi xoay quanh trong vòng sinh, lão, bệnh, tử. Cuối cùng ngài đã quyết định cắt đứt tình thân, phát nguyện dõng mãnh một lòng kiên định, quyết tâm xuất gia tu hành học đạo. Sau đó ngài viết một bài kệ rồi lặng lẽ bước đi.

Tổ sư Minh Đăng Quang
Tổ sư Minh Đăng Quang

Thôi thì thôi, thế thôi thì.

Vẹn nguyền, xin chịu lỗi nghì với cha.

Thiếu niên ngày nọ lìa nhà.

Vượt biên giới Việt – Miên xa dặm ngàn.

Lên non tìm động hoa vàng.

Tầm sư học đạo chốn Nam Vang thành.

Ngài Minh Đăng Quang rời Việt Nam sang Campuchia vào năm 1938, khi đó ngài vừa tròn 15 tuổi. Trời Phật đã không phụ lòng người hiếu đạo, tại xứ Campuchia, ngài Minh Đăng Quang đã gặp được một vị sư phụ người Miên gốc Việt nổi tiếng với đạo pháp cao siêu, ngài liền xin sư phụ thụ giáo cho mình được làm đệ tử. Sau những bước kiểm tra bắt buộc của sư phụ đưa ra, thì ngài Minh Đăng Quang đã vượt qua một cách xuất sắc. Sư phụ thấy ngài có khí chất của một vị chân tu nên vô cùng hoan hỷ và hết lời khen ngợi. Sau đó, sư phụ đã trao truyền đạo pháp và giao hết Tự viện cho ngài trông nom. Trong gần bốn năm tu học ở Campuchia, ngài Minh Đăng Quang chuyên tâm nghiên cứu Kinh Tạng, tìm hiểu về đường lối y bát chân truyền của Phật chư Tăng xứ Miên. Tuy nhiên, những điều ngài đã học được và những giáo lý của sư phụ trao lại, ngài chưa thấy thỏa mãn tâm nguyện của mình, nên ngài đã xin phép sư phụ để trở về Việt Nam. Đó là cuối năm 1941.

Vừa trở lại quê hương, ngài Minh Đăng Quang đã gặp phải một thử thách lớn trong cuộc đời. Một thử thách mà nam tử, nữ nhân ở khắp thế gian ai ai cũng đều phải vượt qua, đó chính là hiếu nghĩa song đường và nghiệp duyên trần thế. Ngài nghĩ trước nghĩ sau rồi liền hạ bút viết ra một bài kệ như sau:

Cha già mái tóc điểm sương.

Mẹ xưa dưới mộ chút hương linh này.

Thôi thì theo cái xưa nay.

Lập gia thất để yên mây chín từng.

Nghĩa ân vành vạnh một vừng.

Có nàng thục nữ khuê trung dịu dàng.

Cảm ơn cứu tử ngàn vàng.

Nguyện cùng xướng họa cung đàn phu thê.

Phương danh nàng là Kim Huê.

Quê vùng Chợ Lớn vẹn bề công dung.

Và rồi duyên định cũng đã an bài, đầu năm 1942, ngài Minh Đăng Quang đã vâng lời thân phụ, ngài thành gia lập thất kết duyên cùng với nàng Kim Huê và sinh được một người con. Không biết có phải là do số phận của ngài trớ trêu hay là do bề trên đã an bài từ trước? Chỉ hơn một năm sau kết hôn và sau khi nàng Kim Huê vừa sinh con được một thời gian ngắn, thì tự nhiên nàng Kim Huê và con đột ngột lâm bệnh rồi từ giã cuộc đời. Ngài thương vợ xót con rồi nghĩ tới cuộc đời nhân sinh thật quá ngắn ngủi, sau đó ngài liền viết một bài kệ:

Gẫm trong trời đất vô cùng,

Nợ duyên âu cũng nghiệp chung muôn loài.

Hay là thánh ý Như Lai,

Muốn cho ôn lại trọn bài đau thương?

Đau thương là tính vô thường!

Vô thường là tính đoạn trường xưa nay.

Một là bài học đau thương, hai là bài học vô thường, ba là bài học đoạn trường, ba bài học này quả là những bài học vô cùng vi diệu, nó đã kiến tạo cho cõi phiền não trở thành một cảnh giới an vui. Chính những bài học đó, đã trợ duyên cho tấm lòng Bồ-tát của ngài Minh Đăng Quang, thực hiện xong hạnh nguyện hôm nào còn dang dở.

Lần thứ hai này, ngài Minh Đăng Quang quyết tâm xuất gia tới một phương trời vô định và không bao giờ trở lại. Ban đầu lộ trình của ngài là đến Hà Tiên rồi ghé Phú Quốc, sau đó ngài sẽ tìm sang các nước có nền Phật giáo hưng thịnh để tu học. Nhưng vì ngài đến trễ nên đã bị nhỡ tàu, ngài đành phải ở lại, sau đó ngài ra đầu gành bãi biển Mũi Nai ngồi tham thiền liền bảy ngày bảy đêm để quán xét nhân duyên. Trước những phong cảnh thiên nhiên và trời đất bao la biến đổi khôn lường, cộng thêm nỗi buồn riêng, khi thân mẫu và vợ con của ngài đều bị đoản thọ. Vào một buổi chiều biển yên sóng lặng, ngài Minh Đăng Quang đã ngộ được lý vô thường, vô ngã và cảnh khổ trầm luân của cuộc đời. Chính tại bãi biển Mũi Nai, ngài Minh Đăng Quang  đã ngộ được lý pháp “Thuyền Bát-nhã”, ngược dòng đời để cứu độ chúng sanh. Năm đó là năm 1944, khi ngài vừa tròn 22 tuổi:

Mãn khai vô thượng liên đài,

Trang nghiêm thị hiện Như Lai tọa thiền.

Sau khi ngài Minh Đăng Quang chứng ngộ lý pháp nhiệm màu, trong lòng ngài cảm nhận thấy vô cùng hoan hỷ và an lạc, ngài trở lại gia đình để thông báo cho cha mẹ và người thân biết tin, rồi sau đó tiếp tục lên Thất Sơn tu tập. Ngài Minh Đăng Quang dấn thân vào rừng núi Thất Sơn, nơi có những núi non huyền bí và hang động thâm sâu, nơi chỉ có những bậc ẩn tu thích sống độc cư mà rất ít người thấy gặp. Ngài đến với Thất Sơn để quyết chí tu hành, hiến dâng trọn cuộc đời cho Phật pháp, với một đại nguyện chóng đắc thành Phật quả. Giữa chốn thâm sơn cùng cốc, rừng thiêng nước độc, tiếng thác đổ suối reo hòa cùng tiếng chim kêu vượn hú, một mình ngài làm bạn với cỏ cây muông thú.

Do chiến tranh hoành hành tàn phá núi rừng, khiến cho những người ẩn tu không còn nơi trú xứ. Vì nhân duyên phước báo, nên ngài Minh Đăng Quang đã gặp được một thiện nam tử, thỉnh ngài về Linh Bửu Tự, tọa lạc tại làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho xưa, nay là tỉnh Tiền Giang, để ngài tiếp tục tu tập và truyền bá Chánh pháp. Lúc đó ngài Minh Đăng Quang tự nghĩ: Đạo cốt tiếp vật lợi sanh, nếu như ẩn tu một mình thì chẳng phải như Tổ Quy Sơn đã nói, nên ngài đã nhận lời mời của vị thiện nam tử về Linh Bửu Tự. Ngài Minh Đăng Quang đã trú xứ tại đây từ năm 1944 đến năm 1947, đêm thì ngài tham thiền tĩnh tọa, sáng sớm thì ngài mang bình bát xuống thôn xóm khất thực hóa duyên. Khi tới giờ ngọ thọ thực xong, ngài tìm nơi tịch mịch để đi thiền hành, giữ cho thân tâm thanh tịnh để trau dồi đạo quả và truyền bá giáo pháp Khất sĩ.

Quá trình truyền đạo và hoằng dương Phật pháp của Tổ sư Minh Đăng Quang

Để đánh dấu quá trình hoằng dương Phật pháp của ngài Minh Đăng Quang, thời pháp được ngài khai đàn giảng đầu tiên là, “Thuyền Bát-nhã”, vào ngày rằm tháng tư năm 1944, tại Linh Bửu Tự, được tọa lạc tại làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho xưa, nay là tỉnh Tiền Giang. Từ đó người dân mộ đạo cảm mến hình ảnh một nhà sư thân đắp y vàng, tay ôm một chiếc bình bát bằng đất nung, ngài đi khất thực hóa duyên vào mỗi buổi sáng. Ngài không có chùa chiền nhà cửa, không có gia đình người thân quyến thuộc, không cất giữ tiền bạc tài vật, không trú xứ một nơi nào nhất định. Ngài phát nguyện nối truyền chính pháp của Phật Thích Ca, sống vân du tự do tự tại, giữ giới thanh tịnh.

Tổ sư Minh Đăng Quang
Tổ sư Minh Đăng Quang

Nhất bát thiên gia phạn.

Cô thân vạn lý du.

Dục cùng sanh tử lộ.

Khất hóa độ xuân thu.

Đầu xuân năm 1947, ngài Minh Đăng Quang đã chính thức nhiếp độ đầy đủ cả hai chúng nam nữ cư sĩ và chúng Tăng, Ni Khất sĩ.

Cùng thời điểm đó, ngài Minh Đăng Quang đã soạn thảo ra nghi thức tụng niệm lễ cúng, một số giáo lý tu học, hành đạo cơ bản dành cho Cư sĩ và chúng Tăng Ni. Ngài thành lập nên hai Tăng Ni đoàn, và trao truyền cho những kiến thức Chánh pháp Phật-đà.

Đến đầu năm 1948, khi thấy nhân duyên hội tụ vừa đủ, ngài Minh Đăng Quang đã rời Phú Mỹ, ngài chính thức khởi hành chuyến vân du đầu tiên, có sự tham gia của hơn 20 chúng Tăng Ni trực chỉ vùng Sài Gòn, Gia Định – Chợ Lớn. Từ đó, những bước chân hành đạo của ngài Minh Đăng Quang, vị Sơ tổ của Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, đã được lan tỏa ra khắp các vùng Nam Bộ, và nhiều vùng miền khác như Tây Ninh, Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu.

Trong những thời thuyết pháp, ngài Minh Đăng Quang luôn nhắc nhở tăng chúng trở về đúng với giới luật, “Nên Tập Sống Chung Tu Học”, như vậy sẽ có hiệu quả hơn. Ngài luôn kêu gọi nhân loại hãy sống thương yêu nhau hơn, không tự lấy để trừ bỏ cái tham, không tự làm để bỏ đi cái ác. Ngài Minh Đăng Quang cũng luôn khuyến khích mọi người, cùng chung tay xây dựng một cuộc sống lành mạnh có đạo đức, sống an vui hạnh phúc, giữ tối thiểu được năm giới nhà Phật, nếu chúng ta làm được như vậy thì cõi niết bàn sẽ được thị hiện ngay tại chốn nhân gian này.

Mỗi người phải biết chữ.

Mỗi người phải thuộc giới.

Mỗi người phải tránh ác.

Mỗi người phải học đạo làm thiện.

Những thời pháp của ngài Minh Đăng Quang còn ghi lại trong bộ chơn lý, gồm có sáu mươi chín tiểu luận, và tập Bồ Tát giáo, gồm có 17 chương. Với hai tác phẩm này, ngài Minh Đăng Quang đã khéo léo dung hợp những tư tưởng trong giáo lý tự chứng ngộ, để đưa ra con đường trung đạo Giới – Định – Tuệ, giúp cho tất cả mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội, nhận được giá trị chân thật nhất của Đạo Phật.

Sau 10 năm tiếp độ tăng chúng, ngài Minh Đăng Quang có trên trăm vị Tăng Ni xuất gia theo ngài tu học, có cả vạn Phật tử, Cư sĩ tại gia quy y thụ giới với ngài, có hơn hai mươi ngôi Tịnh xá được thành lập rải rác tại các tỉnh miền Đông và đồng bằng Sông Cửu Long.

Thời kỳ thọ nạn và vắng bóng của Tổ sư Minh Đăng Quang

Chiều ngày 4/3/1954, tức ngày 30 tháng giêng năm Giáp Ngọ, ( âm lịch ), khi ánh hoàng hôn vừa buông xuống, tại Tịnh xá Ngọc Quang, Sa Đéc, Đồng Tháp, ngài Minh Đăng Quang bước chậm rãi với một dáng vẻ suy tư dưới tàn cây bồ-đề. Ngài gọi chúng đệ tử lại cùng ngồi dưới gốc cây bồ-đề, ngài ân cần khai thị cho đệ tử về sự tu học và mở mang đạo Phật. Ngài nói nhấn mạnh về tương lai Đạo Phật tại Việt Nam và các nước lân cận. Sau đó, ngài Minh Đăng Quang từ giã chúng đệ tử để đi ẩn tu một thời gian. Chư Tăng đệ tử xin được đi cùng nhưng ngài không chấp thuận, sau đó ngài nói, các con hãy ở lại tinh tấn tu hành để giáo hóa chúng sanh, như vậy là các con đã đền ơn chư Phật và làm vui lòng thầy rồi, nếu hữu duyên thì ta sẽ quay trở lại.

Tổ sư Minh Đăng Quang
Tổ sư Minh Đăng Quang

Sáng ngày 5/3/1954, tức ngày mùng 1 tháng 2 năm Giáp Ngọ, ( âm lịch ), ngài Minh Đăng Quang rời Tịnh xá Ngọc Quang, Sa Đéc, Đồng Tháp, cùng với một vị sư già và một chú tiểu để sang Tịnh xá Ngọc Viên, của tỉnh Vĩnh Long, rồi tiếp tục qua tỉnh Cần Thơ. Nhưng lộ trình vân du của ngài vừa đến địa phận Cái Vồn, Bình Minh, Vĩnh Long, bất ngờ ngài Minh Đăng Quang đã bị một nhóm người bắt đi, và từ đó ngài đã biệt vô âm tín cho tới ngày nay, năm đó ngài mới 32 tuổi. Mấy chục năm đã trôi qua, nhưng hàng vạn con tim hiếu kính vẫn luôn tưởng nhớ về ngài Minh Đăng Quang, một vị minh sư đã khai mở ra đường lối tu hành căn bản của Phật Thích Ca, đó chính là Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam.

Mỗi năm mỗi thắp hương lòng.

Cầu cho Sư Tổ thoát vòng tai ương.

Trở về bên mái Phật đường.

Chuyển pháp luân độ mười phương an lành.

Trái oan là nghiệp chúng sanh.

Nạn tai là chuyện phải đành mà thôi.

Đành rồi, hóa giải tức thời.

Khổ đau sẽ hết, nụ cười thêm xinh.

Minh Đăng Quang bóng an bình.

Minh Đăng Quang ngọn đèn linh ta-bà.

Hàng năm, hàng vạn môn đồ tứ chúng đệ tử vẫn luôn cầu nguyện và tâm niệm:

Nhờ tinh thần truyền thừa bất diệt và tinh tấn dõng mãnh của Tổ sư Minh Đăng Quang, mà hiện thời Nam – Trung, Cao nguyên và Đồng bằng hai miền đất Việt đều có đạo tràng Tịnh xá xương minh Chánh pháp. Chư Tăng Ni, Cư sĩ Phật tử vẫn ngày thêm tăng trưởng. Tuy nhiên chúng ta cũng biết rằng, không có một pháp môn nào đưa đến thành tựu hay có được hưng thịnh, mà không phải trải qua những cam go thử thách đâu. Bởi ngay trong thời điểm của từng giai đoạn thực tế, trong mỗi thế hệ chúng ta đang tu học, cũng có một số chư Tăng Ni, Phật tử, Cư sĩ đã có phần nào biểu hiện sự sa sút đạo đức trong đời sống phạm hạnh. Vì tâm không kiên định nên sinh ra chán nản, có những trường hợp còn phá giới từ bỏ cuộc sống tu hành. Mặc dù vậy, nếu chúng ta can đảm có tâm dõng mãnh nhìn thẳng vào sự thật, quán xét sự sanh diệt của các pháp. Để chuyển hóa nó trở lại thành một bài học kinh nghiệm, một phương pháp tu hành diệu dụng, giúp cho chúng ta nhiếp phục mọi trở ngại để đạt được đạo quả giải thoát, đúng như lời khai thị của chư Phật và chư Tổ: “Phiền não tức bồ-đề”.

Tổ sư Minh Đăng Quang
Tổ sư Minh Đăng Quang

Chư tôn Trưởng lão Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni và hàng Phật tử chúng ta đã từng ngậm đắng, nuốt cay vượt qua những khó khăn thử thách của trường đời, mới giữ được thành quả cao quý như ngày hôm nay.

Kẻ đến chân non, kẻ mệt đờ.

Kẻ còn xa lắc, kẻ xa lơ.

Kẻ đang muốn bán đồ nhi phế.

Kẻ đã lưng cao tự thuở giờ.

Hàng năm, cứ tới ngày mùng 1 tháng 2 âm lịch, tại các đạo tràng của các Tịnh xá khắp nơi, đều tổ chức lễ tưởng niệm trang nghiêm ngày Đức Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng, hàng ngàn môn đồ tứ chúng cứ ngậm ngùi tưởng nhớ thâm ân cao cả của ngài. Nguyện đời đời khắc ghi vào tâm khảm tấm gương Bi-Trí-Dũng của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang, để làm rạng danh tông môn pháp phái. Dù đường trần muôn lối, chúng ta mỗi người tu tập hành đạo một nơi, nhưng mong rằng chư Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử, hàng môn đồ của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang, luôn luôn tạc dạ ghi lòng:

Từ ngàn trước bao người dong ruổi.

Nay chốn này đến buổi chúng ta.

Con giòng hưởng lấy tài gia.

Đoái nhìn sự nghiệp thương cha công trình.

Càng rộng lớn kinh dinh đồ sộ.

Là người xưa lao khổ lại càng.

Tìm ra được ánh đạo vàng.

Nhọc nhằn một kẻ, vẻ vang muôn người.

Ôi thật đáng cho đời kính ngưỡng.

Công đức Ngài vô lượng vô biên.

Hỡi chư Phật tử hữu duyên.

Nhớ ơn Thầy Tổ cần chuyên tu hành.

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *