Tiểu sử Cố Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận đệ nhất pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Quý vị và các bạn thân mến! Cố Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận, ngài là một trong những vị cao tăng Tùng Lâm Thạch Trụ, là bậc minh sư ân đức bao trùm. Ngài là tấm gương tỏa sáng, định hướng cho Giáo hội, trong công cuộc chấn hưng nền Phật giáo nước nhà, và ngài từng giữ ngôi vị Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Qua bài viết này, Tôn Giáo Tín Ngưỡng sẽ giúp quý vị và các bạn tìm hiểu rõ hơn về tiểu sử thân thế, quá trình tu hành và những thành tựu to lớn đạt được của vị cao tăng, Cố Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận, thông qua nội dung chi tiết trong bài viết sau đây.
Mục Lục
Tóm tắt về tiểu sử Cố Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận
Cố Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận, ngài có thế danh là Phạm Đức Hạp, Pháp danh là Đức Huy, Pháp hiệu là Thanh Thiệu, hiện chưa rõ ngày tháng sinh cụ thể, chỉ biết ngài sinh vào năm Đinh Dậu, 1897, tại thôn Quần Phương, xã Hải Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Song thân phụ mẫu của ngài là cụ ông Phạm Công Toán, hiệu Thành Phủ và cụ bà Lê Thị Vụ. Ngài có tất cả 8 anh chị em, ngài là người con thứ 6 trong gia đình. Ngài Thích Đức Nhuận sinh ra và lớn lên trong một gia đình nề nếp Nho gia, năm lên 7 tuổi ngài bắt đầu đi học. Thân phụ của ngài vốn là một nhà Đông y, được Sư Tổ trụ trì chùa Đồng Đắc, tức Kim Liên Tự, được tọa lạc tại thôn Đồng Đắc, xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, mời thân phụ ngài sang để chế thuốc chữa bệnh cứu giúp cho dân làng. Do ngài được theo hầu thân phụ, nên dần dần ngài Thích Đức Nhuận mến mộ cảnh tĩnh mịch cửa Thiền môn. Năm lên 15 tuổi, ngài nhận thấy cuộc đời này là rất vô thường, thân con người ta chỉ là giả tạm, nên ngài Thích Đức Nhuận đã xin phép phụ mẫu cho phép ngài được đi xuất gia.
Sau đó ngài đã xuất gia cầu pháp với Sư Tổ Thích Thanh Nghĩa, thuộc dòng Tào Động, tại chùa Quảng Bá – Hà Nội, là trụ trì chùa Đồng Đắc, tọa lạc tại thôn Đồng Đắc, xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Sau khi thế phát quy y, ngài Thích Đức Nhuận được thầy Bổn Sư gửi đến chùa Thanh Nộn, tại làng Thanh Nộn, xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, tu học với Sư Tổ Thích Thanh Ninh. Với đức hạnh khiêm cung, thông minh siêng năng và hiếu học nên ngài luôn được Sư Tổ chùa Thanh Nộn, thương yêu và kỳ vọng ngài là pháp khí của Tùng Lâm Phật giáo nước nhà.
Năm 1917, khi ngài Thích Đức Nhuận tròn 20 tuổi, ngài đã được Tôn Sư cho thọ giới Cụ túc, tại chùa Già Lê Tự, tọa lạc tại thôn Phúc Nhạc, xã Khánh Nhạc, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Giới đàn này gồm các bậc cao Tăng thạc đức như: Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Khiết làm Hòa thượng Đàn đầu, Trưởng lão Hòa thượng Thích Trung Ninh làm Yết-ma, Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Phúc làm Giáo thọ, Trưởng lão Hòa thượng Thích Khang Thượng, Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Nghĩa làm Tôn chứng. Từ thời điểm đó, ngài Thích Đức Nhuận đã thực sự được dự vào hàng Tăng bảo với một trọng trách; Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa quần sinh.
Sau khi đắc pháp, ngài Thích Đức Nhuận tiếp tục hành cước, tham học ở các ngôi chùa nổi tiếng như, Sư Tổ chùa Đào Xuyên, hiện nay tọa lạc tại thôn Đào Xuyên, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, do Sư Tổ Giám Thông Mệnh giảng dạy. Sư Tổ chùa Bằng, hay còn gọi là chùa Linh Tiên, hiện nay tọa lạc tại quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, và Sư Tổ chùa Sở hay còn gọi là chùa Phúc Khánh, hiện nay tọa lạc tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, do Sư Tổ Phan Trung Thứ thuyết giảng. Trải qua bao thời gian chuyên tâm tu học tại các ngôi chùa nổi tiếng này, ngài Thích Đức Nhuận đã trở thành một bậc đạo hạnh trong sáng. Ngài không những uyên thâm Phật học, mà còn quán triệt cả Khổng giáo và Lão giáo, ngài Thích Đức Nhuận trở thành tiêu đích cho hàng Tăng ni, Phật tử ngưỡng mộ, quy tâm.
Năm 1939, khi này ngài Thích Đức Nhuận 42 tuổi, nhằm mục đích vị tha và dấn thân trong đại nguyện cứu khổ, độ sinh. Ngài Thích Đức Nhuận đã phát tâm thọ Bồ-tát giới, do Sư Tổ chứng đàn là Trưởng lão Hòa thượng Thích Doãn Hải, Viện chủ chùa Tế Xuyên hay còn gọi là Bảo Khám Tự, hiện nay tọa lạc tại thôn Tế Xuyên, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Sự nghiệp hóa đạo của Cố Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận
Năm 1940, sau khi thầy Bổn sư viên tịch, ngài Thích Đức Nhuận trở về để kế thừa di ngôn của thầy Bổn sư giao phó, sau đó ngài Thích Đức Nhuận chính thức làm trụ trì chùa Đồng Đắc. Phật sự đầu tiên được ngài đặt ra là đào tạo Tăng tài và tổ chức Giáo hội, sau đó ngài đã thành lập nên 2 Trường Phật học. Trường Phật học đầu tiên được ngài đặt tại chùa Đồng Đắc, xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, và Trường Phật học thứ hai được ngài đặt tại chùa Kỳ Lân, tọa lạc tại thôn Đại Hữu, xã Văn Bồng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Ngài Thích Đức Nhuận luôn được chư Tăng Ni, Phật tử cung thỉnh làm chủ hạ tại các Trường hạ nổi tiếng như: Trường hạ chùa Phúc Nhạc tức Già Lê Tự, tại thôn Phúc Nhạc, xã Khánh Nhạc, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Trường hạ chùa Kỳ Lân, thôn Đại Hữu, xã Văn Bồng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Trường hạ chùa Sơn Thủy tức Non Nước Tự, tại núi Dục Thúy, phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Trường hạ chùa Bà Đá, tại số 3, phố Nhà Thờ, phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội… Ngài Thích Đức Nhuận luôn nêu cao uy mãnh, Thích Hải Côn bằng tiêu biểu cho ngôi vị Tùng lâm Pháp chủ, khi Giáo hội đã bổ nhiệm.
Năm 1950, với đức độ tu hành và giới luật tinh nghiêm, ngài Thích Đức Nhuận đã được Hội Phật giáo tỉnh Ninh Bình, thỉnh ngài giữ chức Giám Luật Phật giáo tỉnh Ninh Bình, để làm tiêu đích cho chư Tăng Ni, Phật tử, Tam Vô lậu học trên con đường tiến tu.
Năm 1955, sau khi hòa bình trở lại, ngài Thích Đức Nhuận đã được cố Trưởng lão Hòa thượng Tuệ Tạng, là Thượng thủ Giáo hội Tăng già toàn quốc. Cùng với Trưởng lão Hòa thượng Mật Ứng, là Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Bắc Việt, cùng các ông Trần Quang Trung, Nhất Kinh Phương đại diện Mặt trận Thủ đô Hà Nội, mời ngài về Thủ đô Hà Nội để chung lo Phật sự.
Trong thời gian này, ngài Thích Đức Nhuận được thỉnh về làm trụ trì chùa Phổ Giác, tọa lạc tại Ngõ 56, phố Ngô Sỹ Liên, phường Văn Miếu, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Từ ngôi chùa này, ngài Thích Đức Nhuận thường xuyên sang trụ sở Trung ương Giáo hội chùa Quán Sứ, để làm việc. Về sau, do Giáo hội thỉnh cầu, nên ngài Thích Đức Nhuận đã ở tại chùa Quán Sứ, chỉ sau một thời gian ngài được bổ nhiệm giữ ngôi vị trụ trì chùa Quán Sứ.
Năm 1956, ngài Thích Đức Nhuận được bầu làm Trị sự phó Giáo hội Tăng già Bắc Việt, kiêm đại diện Phật giáo Thủ đô Hà Nội.
Năm 1957, ngài Thích Đức Nhuận là một trong những thành viên, trong Đoàn đại diện Đại biểu Phật giáo Việt Nam, đến Phủ Chủ Tịch để hội kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phó Chủ tịch Tôn Đức Thắng.
Tháng 3/1958, Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam chính thức được thành lập, do Hòa thượng Thích Trí Độ làm Hội trưởng, ngài Thích Đức Nhuận được Đại hội suy cử, giữ ngôi vị Phó Hội trưởng Hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam.
Năm 1969, ngài Thích Đức Nhuận được mời về làm trụ trì chùa Quảng Bá tức Hoàng Ân tự, tọa lạc tại xã Quảng An, huyện Từ Liêm, nay là phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
Cùng năm 1969, Hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam thành lập Trường tu học Phật pháp Trung ương, tại chùa Quảng Bá và thỉnh ngài Thích Đức Nhuận giữ chức Hiệu trưởng. Đây là một ngôi Trường Phật học có tổ chức đầu tiên, sau khi miền Bắc giải phóng. Ngài Thích Đức Nhuận làm trụ trì, giáo hóa và độ chúng tại chùa Quảng Bá được hơn 20 năm. Sau đó, ngài Thích Đức Nhuận được mời làm trụ trì chùa Hòe Nhai tức Hồng Phúc Tự, tọa lạc tại số 19, phố Hàng Than, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Năm 1979, sau khi Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Độ, Hội trưởng Hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam viên tịch, ngài Thích Đức Nhuận được suy cử làm quyền Hội trưởng cho đến năm 1981, khi cả nước đã thống nhất Phật giáo.
Năm 1980, để có nơi an táng cho chư Tăng Ni, Phật tử sau khi viên tịch, ngài Thích Đức Nhuận đã đứng ra xin phép Chính quyền, cấp phép và thành lập nghĩa trang tại chùa Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Sau đó, ngài Thích Đức Nhuận nhận lãnh chức vụ, trụ trì chùa Hồng Phúc cho đến ngày ngài viên tịch.
Năm 1980, trong bối cảnh cả nước đã hoàn toàn độc lập thống nhất, chư Tăng Ni, Phật tử khắp trên cả nước mong muốn thực hiện ý nguyện thống nhất Phật giáo Việt Nam. Sau đó, Ban Vận động Thống nhất Phật giáo được thành lập, do Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Trưởng ban, ngài Thích Đức Nhuận được cung thỉnh vào hàng Chứng minh của Ban Vận động Thống nhất Phật giáo cả nước.
Đến tháng 11/1981, tại chùa Quán Sứ, thành phố Hà Nội, đã diễn ra Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam, để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tại Hội nghị này, toàn thể Đại biểu nhất tâm cung thỉnh ngài Thích Đức Nhuận đảm nhận ngôi vị Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Cũng trong Đại hội, ngài Thích Đức Nhuận đã đề nghị ba điểm như sau:
- Được mở Trường Cao cấp Phật học tại ba miền Bắc, Trung, Nam, và mở các Trường Cơ bản Phật học tại các tỉnh.
- Tăng Ni đều được phép xuất gia tu học.
- Được hoạt động tự do tín ngưỡng tại các cơ sở Tự viện khắp trong cả nước.
Đề nghị trên của ngài Thích Đức Nhuận, đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng chấp nhận và hứa chắc chắn sẽ thực hiện.
Từ Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam, năm 1981, cho đến Đại hội Đại biểu Phật giáo Việt Nam lần thứ 3, năm 1992, ngài Thích Đức Nhuận luôn được chư Tăng Ni, Phật tử khắp trên cả nước tín nhiệm và tiếp tục suy tôn ngài, đảm nhiệm ngôi vị Pháp chủ cho đến ngày ngài viên tịch.
Ngoài công việc Phật sự, ngài Thích Đức Nhuận còn tham gia công tác từ thiện xã hội, và Ngài được bầu làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, liên tiếp trong nhiều khóa. Ngài Thích Đức Nhuận đã được Nhà nước Việt Nam, tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng nhất.
Pháp môn tu của cố Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận là gì?
Ngài Thích Đức Nhuận thuộc dòng pháp môn Tông Tào Động đời thứ 44, dòng pháp này được truyền thừa từ Thiền sư Động Sơn Lương Giới, là người sáng lập nên Tông Tào Động tại Trung Quốc, đến thế kỷ 17, Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt du phương sang Trung Quốc cầu pháp rồi khai ngộ, sau đó truyền thừa tại miền Bắc Việt Nam.
Về phương pháp tu tập, ngài Thích Đức Nhuận tự mình tu theo pháp Thiền Phản Văn Văn Tự Tính, của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, được diễn giải trong chương Quán Thế Âm Bồ Tát Nhĩ Căn Viên Thông, thuộc bộ Kinh Lăng Nghiêm. Pháp môn tu này, về bản chất và nội dung, đều tương tự như cách tham cứu tu hành của Thiền Tông như; Khán thoại đầu, Chỉ quán đả tọa… Thông qua đó, sẽ giúp cho hành giả dứt sạch vọng niệm, vô minh, rồi đạt đến chỗ siêu việt và chứng ngộ bản thể Phật Tính thanh tịnh của chính mình, thoát khỏi sinh tử luân hồi. Ngài Thích Đức Nhuận thực hành pháp này cho đến cuối đời và làm một bài kệ đúc kết về pháp môn tu của ngài như sau:
Một niềm xoay lại đối tính nghe.
Muôn sự buông xuôi chỉ lắng nghe.
Nghe lắng cho sâu không nghe cảnh.
Cảnh rời, văn tính chính Tính nghe.
Ngài Thích Đức Nhuận nhấn mạnh đến tầm quan trọng và thiết yếu của việc thực hành Phật Pháp, con đường Giới – Định – Tuệ, đối với các hàng Tăng ni, phật tử. Đây là con đường cơ bản và cần thiết nhất, để mỗi người có thể nỗ lực tu hành, đạt đến sự giải thoát như lời Phật dạy: “Bây giờ thì cần giới luật, ít lâu sau khi được thụ giới, trong dân giới các giới sư học không đủ mấy bộ luật, nên sự trao truyền còn nhiều thiếu sót.
Con đường tiến đến sự Giác ngộ giải thoát, chỉ có Giới – Định – Tuệ. Đầu tiên, giới mà đã không đầy đủ thì tiếp đến Định và Tuệ sẽ không phát huy được. Giới sẽ có bốn khoa là: Giới pháp, giới thể, giới hành và giới tướng. Giới pháp là… Đức Phật quán xét căn cơ của chúng sinh xem có lỗi lầm gì, rồi ngài sẽ chế ra giới ấy để cho chúng sinh tu sửa. Giới thể là… thầy trò theo giới pháp ấy mà truyền thụ lại cho nhau. Giới hành là… các hàng Tăng ni khi thụ giới xong sẽ y theo giới pháp đó mà tu hành. Giới tướng là… những tướng riêng biệt, như ngũ giới thì sát, đạo, dâm, vọng, và ẩm tửu, mỗi thứ đều có tướng riêng. Bây giờ, các vị Hòa Thượng trong các Đàn truyền giới nên để tâm nghiên cứu kỹ, không khéo thành ra giáo lý cao siêu hay như thế, mà kết quả không đạt được mấy vì mình làm chưa đúng, mình sẽ không nhận được chân tâm.
Ngài Thích Đức Nhuận với chủ trương tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên, ngài cho rằng, cả ba Tôn giáo Phật giáo – Nho giáo – Lão giáo đều có những điểm tương đồng trong giáo lý, và đều hướng cho con người nên làm những việc thiện lành, cho dù ngôn ngữ hành đạo, phương tiện thực hành khác nhau. Ngoài ra, ngài Thích Đức Nhuận cũng giảng giải và khuyên các đệ tử sơ cơ, nên thực hành pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật thường xuyên để cầu vãng sinh Tây Phương Cực Lạc.
Đệ nhất Pháp chủ Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận viên tịch khi nào?
Theo năm tháng, thân ngũ uẩn vô thường cũng sẽ đến hồi tan hoại. Điều rất đặc biệt là, cho đến ngày ngài Thích Đức Nhuận sắp viên tịch, trở về với thế giới cực lạc, nhưng ngài vẫn tỉnh giác tự tại, biểu thị rõ là một hiện thân của Bồ-tát giới đức trang nghiêm và thanh tịnh, sinh tử nhàn nhi dĩ khứ lai vô ngại.
Ngài Thích Đức Nhuận đã an nhiên thu thần thị tịch vào lúc 5 giờ 05 phút, sáng ngày 11/11 năm Quý Dậu, nhằm ngày 23/12/1993, tại chùa Hòe Nhai, tọa lạc tại số 19, phố Hàng Than, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Ngài trụ thế 97 năm, hạ lạp 77 mùa an cư kiết hạ. Sau lễ tang, ngài Thích Đức Nhuận được an táng tại bảo tháp trong chùa Hoằng Ân, tọa lạc tại ngõ 12, phố Đặng Thai Mai, phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
Xuất thế giới hạnh tinh nghiêm, nhập thế lợi lạc quần sanh, Đệ nhất Đức Pháp chủ luôn khơi dòng trí tuệ Văn Thù, thể hiện hạnh nguyện Phổ Hiền tốt đời đẹp đạo. Nhờ đó, mà đông đảo chư Tăng ni, Phật tử Việt Nam đã được thấm nhuần thâm ơn pháp nhũ và lượng cả từ bi của ngài. Toàn thể Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước, xin nguyện đê đầu kính lạy những bước chân giải thoát của bậc Đại sư “xuất trần thượng sĩ”, chúng con nguyện noi theo gương sáng của ngài, trên con đường tu hành để hoằng dương Phật pháp, làm lợi lạc quần sanh…
Các đệ tử đã quy y xuất gia tu hành với Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận
1 – Hòa thượng Thích Thanh Khánh, ( sinh năm 1921 – Viên tịch năm 2013), Viện chủ chùa Hòe Nhai, là trưởng pháp tử.
2 – Hòa thượng Thích Tâm Châu, ( sinh năm 1921 – Viên tịch năm 2015 ).
3 – Hòa thượng Thích Trung Quán, ( sinh năm 1918 – Viên tịch năm 2003).
4 – Hòa Thượng Thích Tuệ Đăng, (sinh năm 1927 – Viên tịch năm 1997).
5 – Hòa thượng Thích Tuệ Côn, ( sinh năm 1927 – Viên tịch năm 2005), trụ trì chùa Quảng Bá.
6 – Hòa thượng Thích Phúc Trí, ( sinh năm 1917 – Viên tịch năm 2013), trụ trì chùa Mễ Trì Thượng, tọa lạc tại phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
7 – Thượng tọa Thích Đạo Minh, trụ trì chùa Quảng Bá.
8 – Thượng tọa Thích Thọ Lạc, Trưởng ban trị sự Giáo hội Phật Giáo tỉnh Ninh Bình.
9 – Ni trưởng Hải Triều Âm, ( sinh năm 1920 – Viên tịch năm 2013), trụ trì chùa Dược Sư, tọa lạc thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.
10 – Ni trưởng Thích Đàm Ánh, ( sinh năm 1924 – viên tịch năm 2015), trụ trì chùa Phụng Thánh, tọa lạc tại số 43, ngõ Cống Trắng, phường Trung Phụng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.